Chủ Nhật, 6 tháng 7, 2014

Kinh Đoạn Tận Ái


Kinh Đoạn Tận Ái 

1. Do duyên mà thức sinh và thức ấy có tên tùy theo duyên ấy. Do duyên mắt và các sắc, thức sinh, và thức ấy có tên là nhãn thức. Do duyên tai và các tiếng, thức sinh, và thức ấy có tên là nhĩ thức. Do duyên mũi và các hương, thức sinh, và thức ấy có tên là tỷ thức. Do duyên lưỡi và các vị, thức sinh, và thức ấy có tên là thiệt thức. Do duyên thân và các xúc, thức sinh và thức ấy có tên là thân thức. Do duyên ý và các pháp, thức sinh, và thức ấy có tên là ý thức. 

2. Do duyên nào lửa sinh và lửa ấy có tên tùy theo duyên ấy: duyên củi, lửa sinh, lửa ấy gọi là lửa củi. Duyên vỏ gỗ bào, lửa sinh, lửa ấy gọi là vỏ bào. Duyên cỏ, lửa sinh, lửa ấy gọi là lửa cỏ. Duyên phân bò, lửa sinh, lửa ấy gọi là lửa phân bò. Duyên trấu, lửa sinh, lửa ấy gọi là lửa trấu. Duyên đống rác, lửa sinh, lửa ấy gọi là lửa đống rác. 

3. Có bốn loại thức ăn giúp cho an trú các loài hữu tình đã sinh hay phò trợ các loài hữu tình sẽ sinh. Thế nào là bốn? Đoàn thực hoặc thô hoặc tế, thứ hai là xúc thực, thứ ba là tư niệm thực, và thứ tư là thức thực. Bốn thức ăn này lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm sinh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Bốn thức ăn này lấy ái làm nhân duyên, lấy ái làm tập khởi, lấy ái làm sinh chủng, lấy ái làm nguyên nhân. 

4. Tương tự, ái lấy thọ làm nhân duyên. Thọ lấy xúc làm nhân duyên. Xúc lấy sáu nhập làm nhân duyên. Sáu nhập lấy danh sắc làm nhân duyên. Danh sắc lấy thức làm nhân duyên. Thức lấy các hành làm nhân duyên. Các hành lấy vô minh làm sinh chủng. Như vậy, vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên sáu nhập, sáu nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được hiện hữu. Đây là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này. 

5. Cái này có nên cái kia có, cài này sinh nên cái kia sinh. 

6. Do vô minh đoạn diệt, xả ly một cách hoàn toàn nên các hành diệt. Do các hành diệt nên thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu nhập diệt. Do sáu nhập diệt nên xúc diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. Do thọ diệt nên ái diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sinh diệt. Do sinh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não đều diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này. 

7. Cái này không có nên cái kia không có, cái này diệt nên cái kia diệt. 

8. Thấy như vậy, ta không còn chạy theo thời quá khứ và không còn suy nghĩ, Ta có mặt trong thời quá khứ hay không có mặt trong thời quá khứ, ta có mặt trong thời quá khứ như thế nào, hình vóc như thế nào, trước kia ta là gì? 

9. Cũng vậy, ta không còn chạy theo thời vị lai và không còn suy nghĩ, Ta sẽ có mặt trong thời vị lai hay ta sẽ không có mặt trong thời vị lai, ta sẽ có mặt trong thời vị lai như thế nào, hình vóc như thế nào, trước kia ta là gì? 

10. Tiếp theo, ta không còn nghi ngờ gì về mình trong thời hiện tại, Ta có mặt hay không có mặt, ta có mặt như thế nào, hình vóc như thế nào, hữu tình này từ đâu đến, và rồi nó sẽ đi đâu? 

11. Pháp này thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự thân giác hiểu. Tất cả những gì đã nói là do duyên mà nói. 

12. Có ba sự hòa hợp mà một bào thai hình thành. Một, ba mẹ có giao hợp và người mẹ không trong thời có thể thụ thai, hương ấm không hiện tiền, bào thai không thể hình thành. Hai, ba mẹ có giao hợp và người mẹ trong thời có thể thụ thai, nhưng hương ấm không hiện tiền, bào thai không thể hình thành. Ba, ba mẹ có giao hợp và người mẹ trong thời có thể thụ thai, hương ấm hiện tiền, bào thai hình thành. 

13. Người mẹ trong chín hay mười tháng mang thai, với sự lo âu lớn đối với gánh nặng. Khi đã sinh, người mẹ nuôi đứa con với máu của mình. Sữa của bà mẹ được xem là máu. 

14.  Đứa trẻ ấy, sau khi lớn lên, các căn đã thuần thục, chơi với các trò chơi dành cho các đứa trẻ, như với cày nhỏ, chơi khăng, chơi nhảy nhào lộn, chơi chong chóng, chơi với đồ đong bằng lá, chơi xe con, chơi cũng nhỏ. Các căn do mắt nhận thức, được thuần thục, thọ hưởng đầy đủ năm món dục lạc. Các sắc do mắt nhận thức, sắc này khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn. Tương tự với các tiếng do tai nhận thức, các hương do mũi nhận thức, các vị do lưỡi nhận thức, các xúc do thân cảm xúc. 

15. Khi thấy sắc bằng mắt, người đó tham ái đối với sắc đẹp, ghét bỏ đối với sắc xấu, sống niệm không an trú trên thân, với một tâm nhỏ mọn. Người đó không như thật tuệ tri tâm giải thoát, tuệ giải thoát, chính nhờ chúng mà các pháp ác được trừ diệt, không có dư tàn. Đối với thân, sơ (thuận, nghịch) có cảm thọ nào khởi lên: thọ lạc, thọ khổ, thọ không lạc không khổ, người đó tùy hỷ, hoan nghênh, tham trước thọ ấy, vì vậy, dục sinh hỷ, có tâm dục hỷ đối với những cảm thọ ấy, nên dục hỷ sinh, có tâm dục hỷ đối với những cảm thọ ấy, tức là chấp thủ. Do duyên thủ nên hữu sinh, do duyên hữu nên sinh sinh khởi, do duyên sinh nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não sinh. Đây là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này. Tương tự khi người đó nghe tiếng với tai, ngửi hương với mũi, nếm vị với lưỡi, cảm xúc với thân, nhận thức pháp với ý, tham ái đối với pháp tốt, ghét bỏ đối với pháp xấu. 

16. Như Lai thuyết pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, đầy đủ văn nghĩa. Như Lai truyền dạy phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, thanh tịnh. Người gia trưởng hay con vị gia trưởng, hay một người sinh ở giai cấp hạ tiện nào nghe Pháp ấy, sinh lòng kính ngưỡng Như Lai, suy nghĩ, Đời sống gia đình đầy những phiền trược, con đường đầy những bụi đời, đời sống xuất gia phóng khoáng như hư không, thật rất khó cho một người sống ở gia đình có thể sống theo phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc, vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. 

17. Khi đã xuất gia, vị ấy sống thành tựu học pháp chánh hạnh, từ bỏ sát sinh, tránh xa sát sinh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sinh và loài hữu tình. Vị ấy từ bỏ lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ mong những vật đã cho, sống thanh tịnh, không có trộm cắp, từ bỏ tà hạnh, sống theo phạm hạnh, sống hạnh viễn ly, từ bỏ dâm dục hèn hạ, từ bỏ nói láo, nói những lời chân thật, y chỉ trên sự thật, chắc chắn, đáng tin cậy, không lường gạt, không phản lại đối với đời, từ bỏ nói hai lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, không đến chỗ kia nói để sinh chia rẽ ở những người kia. 

18. Vị ấy sống hòa hợp, hân hoan trong hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp, từ bỏ nói lời độc ác, tránh xa lời nói độc ác, nói những lời nói không lỗi lầm, đẹp tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tạo nhã, đẹp lòng nhiều người, từ bỏ lời nói phù phiếm, tránh xa lời nói phù phiếm, nói đúng thời, nói những lời chân thật, nói những lời có ý nghĩa, nói những lời về Chánh pháp, nói những lời về Luật, nói những lời đáng được gìn giữ, những lời hợp thời, thuận lý, có mạch lạc hệ thống, có ích lợi. 

19. Vị ấy từ bỏ làm hại đến các hột giống và các loại cây cỏ, dùng một ngày một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ ăn phi thời, từ bỏ đi xem múa, hát, nhạc, trình diễn, từ bỏ trang sức bằng vòng hoa, hương liệu, dầu thơm và các thời trang, từ bỏ dùng giường cao và giường lớn, từ bỏ nhận vàng bạc, từ bỏ nhận các hạt sống, từ bỏ nhận thịt sống, từ bỏ nhận đàn bà, con gái, từ bỏ nhận nô tỳ, gái và trai, từ bỏ nhận cừu và dê, từ bỏ nhận gia cầm và heo, từ bỏ nhận voi, bò, ngựa và ngựa cái, từ bỏ nhận ruộng nương và đất đai, từ bỏ nhận người môi giới hoặc tự mình làm môi giới, từ bỏ buôn bán, từ bỏ các sự gian lận bằng cân, tiền bạc, đo lường, từ bỏ các tà hạnh như hối lộ, gian trá, lừa đảo, từ bỏ làm thương tổn, sát hại, câu thúc, bức đoạt, trộm cắp, cướp phá. 

20. Vị ấy biết đủ với tấm y để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo (y và bát). Ví như con chim bay đến chỗ nào cũng mang theo hai cánh, vị Tỳ kheo biết đủ với tấm y để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo. Vị ấy nhờ thành tựu Thánh giới uẩn này nên hưởng được thọ lạc, nội tâm không lỗi lầm. 

21. Khi mắt thấy sắc, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến con mắt không được chế ngự, khiến tham ái, ưu, bi, các pháp ác, các pháp bất thiện khởi lên, vị ấy tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì con mắt, thực hành sự hộ trì con mắt. Tương tự khi tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân cảm xúc, ý nhận thức các pháp.

22. Vị ấy khi đi tới, đi lui đều tỉnh giác, khi nhìn thẳng, nhìn quanh đều tỉnh giác, khi co tay, duỗi tay đều tỉnh giác, khi mang y kép, bình bát, thượng y đều tỉnh giác, khi ăn uống, nhai, nuốt đều tỉnh giác, khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác, khi đi, đứng, ngồi, nằm, thức, nói, im lặng đều tỉnh giác. 

23. Vị ấy với sự thành tựu Thánh giới uẩn này, với sự thành tựu Thánh hộ trì các căn này, và với Thánh chánh niệm tỉnh giác này, lựa một chỗ thanh vắng, tịch mịch như khu rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây, ngoài trời, đống rơm. Sau khi đi khất thực về và ăn xong, vị ấy ngồi kiết già, lưng thẳng, tại chỗ nói trên, và an trú chánh niệm trước mặt. 

24. Vị ấy từ bỏ tham ái ở đời, sống với tâm thoát ly tham ái, gột rửa tâm hết tham ái. Từ bỏ sân hận, vị ấy sống với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng hữu tình, gột rửa, tâm hết sân hận. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, vị ấy sống thoát ly hôn trầm thụy miên, với tâm tưởng hướng về ánh sáng, chánh niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôn trầm thụy miên. Từ bỏ trạo cử hối quá, vị ấy sống không trạo cử, nội tâm trầm lặng, gột rửa tâm hết trạo cử, hối tiếc. Từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sống thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối với pháp thiện. 

25. Sau khi từ bỏ năm triền cái làm ô nhiễm tâm, làm cho yếu ớt trí tuệ, vị ấy ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sinh, có tầm có tứ. Lại nữa. vị Tỳ kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sinh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Lại nữa, vị Tỳ kheo ly hỷ trú xả và chánh niệm tỉnh giác, thân cảm giác sự thọ lạc mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú thiền thứ ba. Lại nữa. vị Tỳ kheo xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. 

26. Khi vị ấy thấy sắc bằng mắt, vị ấy không tham ái đối với sắc đẹp, không ghét bỏ đối với sắc xấu, vị ấy sống an trú niệm trên thân, với tâm vô lượng. Vị ấy như thật tuệ tri tâm giải thoát, tuệ giải thoát, chính nhờ chúng mà các pháp ác, pháp bất thiện của vị ấy được trừ diệt, không có dư tàn. Như vậy từ bỏ (thuận nghịch), có cảm thọ nào khởi lên: thọ lạc, thọ khổ, hay thọ không khổ không lạc, vị ấy không tùy hỷ, không hoan nghênh, không tham trước thọ ấy. Nếu có dục hỷ nào đối với các cảm thọ, dục hỷ ấy được trừ diệt. Do dục hỷ diệt nên thủ diệt. Thủ diệt nên hữu diệt. Hữu diệt nên sinh diệt. Sinh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Đây là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này. Tương tự khi vị ấy nghe bằng tai, ngửi hương bằng mũi, nếm vị bằng lưỡi, cảm xúc bằng thân, nhận thức pháp bằng ý. 

Trên đây là Kinh Đoạn tận ái, các vị hãy thọ trì đoạn tận ái giải thoát này. 

Thế Tôn thuyết giảng xong, các Tỳ kheo hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy. 

(HT Thích Minh Châu dịch, Đại Kinh đoạn tận ái, Mahatanha sankhaya suttam, Kinh Trung Bộ tập I)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét