THỨC ĂN CỦA CÁC PHÁP
1. Bốn hạng người có khả năng thành tựu
con đường
Hạng hiểu được tức khắc, người đã gặp một vị Phật và có đủ khả năng
thành tựu đạo và quả sau khi nghe ngài giảng một thời pháp ngắn gọn.
Hạng chúng sinh không đủ khả năng thành tựu đạo quả sau khi nghe một
thời pháp ngắn do đức Phật giảng, nhưng có đủ khả năng chứng ngộ đạo quả khi
thời pháp ngắn kia được giảng rộng thêm
Hạng
chúng sanh không thể chứng đắc đạo quả khi được nghe một thời Pháp ngắn do đức
Phật giảng hoặc khi nghe thời Pháp ấy được giảng rộng thêm nhưng cần phải học
hỏi, thận trọng ghi chép, và nghiền ngẫm suy tư về những lời dạy được trình bày
rồi đem ra tu tập thực hành nhiều ngày, nhiều tháng và nhiều năm, mới có thể
thành tựu đạo quả.
Hạng tùy theo thời gian tu tập cần thiết để có thể chứng đắc đạo quả,
và hơn nữa, tùy thuộc số lượng ba-la-mật, và số ô nhiễm mà mỗi người đã tích
trữ trong luồng nghiệp. Những hạng này cần một thời gian bảy ngày hoặc cần đến
ba mươi hoặc sáu mươi năm chí công tu tập thực hành.
2. Ba loại bệnh nhân
Một loại bệnh nhân chắc chắn sẽ được lành bệnh đúng lúc, dầu không
uống thuốc hay được chữa trị.
Một bệnh nhân chắc chắn sẽ không được phục hồi và sẽ chết vì chứng
bệnh, dầu chữa trị và uống thuốc cách nào.
Một bệnh nhân sẽ được phục hồi nếu thuốc men thích nghi, được chữa
trị đầy đủ và đúng mức, nhưng sẽ không được phục hồi và sẽ chết nếu không dùng
đúng thuốc và chữa trị thích nghi.
3. 15 hạnh bố thí
Giới
Thu thúc sáu căn
Ẩm thực độ lượng
Tỉnh thức
Bảy đặc tính của người tốt và có đức hạnh: đức tin, niệm, hổ thẹn tội lỗi, ghê sợ hậu quả của tội lỗi, học nhiều hiểu rộng, tinh tấn, trí tuệ
Tứ thiền, bốn tầng thiền sắc giới
Thu thúc sáu căn
Ẩm thực độ lượng
Tỉnh thức
Bảy đặc tính của người tốt và có đức hạnh: đức tin, niệm, hổ thẹn tội lỗi, ghê sợ hậu quả của tội lỗi, học nhiều hiểu rộng, tinh tấn, trí tuệ
Tứ thiền, bốn tầng thiền sắc giới
4. Bảy giai đoạn thanh tịnh
Giới tịnh
Tâm tịnh
Kiến tịnh
Đoạn nghi tịnh
Đạo phi đạo tri kiến tịnh
Đạo tri kiến tịnh
Tri kiến tịnh
5. 37 phẩm trợ đạo gồm 7 nhóm
Tâm tịnh
Kiến tịnh
Đoạn nghi tịnh
Đạo phi đạo tri kiến tịnh
Đạo tri kiến tịnh
Tri kiến tịnh
5. 37 phẩm trợ đạo gồm 7 nhóm
TỨ NIỆM XỨ
|
4
|
1. Niệm thân
2. Niệm thọ 3. Niệm tâm 4. Niệm pháp |
TỨ CHÁNH CẦN
|
4
|
1. Tinh tấn lánh xa ác pháp đã
phát sanh
2. Tinh tấn ngăn ngừa ác pháp chưa sanh 3. Tinh tấn phát triển thiện pháp chưa sanh 4. Tinh tấn tăng trưởng thiện pháp đã sanh |
TỨ THẦN TÚC
|
4
|
1. Dục như ý túc
2. Tấn như ý túc 3. Tư duy như ý túc 4. Trạch quán như ý túc |
NGŨ CĂN
|
5
|
1. Tín căn
2. Tấn căn 3. Niệm căn 4. Ðịnh căn 5. Tuệ căn |
NGŨ LỰC
|
5
|
1. Tín lực
2. Tấn lực 3. Niệm lực 4. Ðịnh lực 5. Tuệ lực |
THẤT GIÁC CHI
|
7
|
1. Niệm giác chi
2. Trạch pháp giác chi 3. Tinh tấn giác chi 4. Phỉ giác chi 5. Khinh an giác chi 6. Ðịnh giác chi 7. Xả giác chi |
BÁT CHÁNH ĐẠO
|
8
|
1. Chánh kiến
2. Chánh tư duy 3. Chánh ngữ 4. Chánh nghiệp 5. Chánh mạng 6. Chánh tinh tấn 7. Chánh niệm 8. Chánh định |
6. Tứ niệm xứ:
Thân quán niệm xứ, vắn tắt gọi Niệm thân, là sự chú niệm kiên cố
áp đặt vào những hiện tượng của thân, như hơi-thở-vào và hơi-thở-ra.
Thọ quán niệm xứ, vắn tắt gọi Niệm thọ, là sự chú niệm kiên cố áp
đặt vào những cảm thọ.
Tâm quán niệm xứ, vắn tắt gọi
Niệm tâm, là sự chú niệm kiên cố áp đặt vào những tư tưởng hay những tiến trình
tâm, như ý nghĩ liên hợp hoặc không liên hợp với khát vọng.
Pháp quán niệm xứ, vắn tắt
gọi Niệm pháp, là sự chú niệm kiên cố áp đặt vào những hiện tượng như những chướng
ngại tinh thần (pháp triền cái)…
7. Tứ chánh cần
Tinh tấn chế phục hoặc loại trừ những hành động
bất thiện đã khởi sanh, hoặc đang trên đà phát sanh;
Tinh tấn xa lánh (chẳng những trong kiếp sống
hiện tiền mà luôn cả trong những kiếp về sau), ngăn ngừa những hành động bất
thiện chưa phát sanh, không để cho nó khởi sanh;
Tinh tấn làm phát sanh những hành động thiện chưa
khởi sanh;
Tinh tấn tăng trưởng và duy trì bền lâu những
hành động thiện đã khởi sanh hoặc trên đà phát sanh.
Những hành động bất thiện đã phát sanh là những
nghiệp bất thiện đã tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Các nghiệp này bao gồm
những hành động bất thiện có tác ý, bằng thân, khẩu, ý, mà mình đã làm trong
chuỗi dài vô tận những chu kỳ thế gian và trong những kiếp sống quá khứ.
Những nghiệp bất thiện chưa phát sanh là những nghiệp bất thiện, trong tương
lai. Trong kiếp sống nầy, bắt đầu từ khoảnh khắc kế tiếp trong đời sống hiện
tại, tất cả những nghiệp bất thiện mới của ta mỗi khi phát sanh, bất luận lúc
nào trong kiếp hiện tiền và trong chuỗi dài những kiếp sau đó, chưa phát sanh.
Công trình dập tắt nghiệp bất thiện của những
hành động đã và chưa phát sanh là loạị trừ Thân kiến bên trong chính mình,
không có gì khác.
8.
Tứ như ý túc
Dục như ý túc có nghĩa (nhiệt tâm), nóng lòng
mong muốn được có, hết lòng muốn thành đạt, muốn tiến đến, muốn hoàn tất viên
mãn, muốn thành tựu. ý muốn ở đây là cực kỳ mong muốn, ý muốn ở mức cao độ.
Không có bất luận chi, bên trong hay bên ngoài cá nhân ta có thể cản ngăn lòng
ham muốn ấy. Ðây là loại ham muốn đưa đến ý nghĩ, "Nếu không thành đạt
điều nầy trong kiếp sống hiện tại ắt ta không thể an tâm. Thà chết còn hơn sống
mà không làm được như ý nguyện."
Tấn như ý túc, là chánh
cần. Người có đức hạnh chuyên cần như vậy tự thấm nhuần ý nghĩ rằng mục tiêu có
thể thành tựu nếu mình tận lực cố gắng. Người ấy không rủn chí dầu có ai bảo
rằng mình sẽ trải qua trăm ngàn khó khăn khổ nhọc. Ngưòi ấy không sờn lòng dầu
thật sự gặp những hoàn cảnh cực kỳ gian lao kham khổ. Người ấy không thối chí
dầu nghe nói rằng mình phải gia công tinh tấn trong nhiều ngày, nhiều tháng,
nhiều năm. Người ấy không nản lòng dầu thật sự gia công tinh tấn chuyên cần
suốt thời gian lâu dài như thế ấy.
Tâm như ý túc, có nghĩa
bám chặt vào những thành công,
khi gặp Giáo Huấn và nghe Giáo Pháp. Ðây là sự bám níu cực kỳ nhiệt thành và
dõng mãnh.
Trạch quán như ý túc có nghĩa: sáng suốt hiểu biết rõ ràng, nhận chân
tầm quan trọng của những khổ đau trong cảnh địa ngục, và những hoàn cảnh bất
hạnh triền miên trải dài theo vòng quanh những kiếp sinh tồn của vòng luân hồi.
Ðó là sự hiểu biết có thể nhận thấy lợi ích đặc thù của như ý túc. Ðó là sự hiểu biết có thể
tiềm ẩn và sâu kín nằm trong những pháp khó hiểu, và trong bản chất của những
pháp khó thấu ấy. Một người đã có nhiều hiểu biết như thế không còn tìm vui
thích trong cuộc rượt bắt những lạc thú trần tục, ngoại trừ chạy theo những như ý túc. Người ấy chỉ mãn nguyện khi
nắm vững những như ý túc, uyên thâm và sâu thẳm. Giáo Pháp càng thâm sâu,
nguyện vọng thành đạt Giáo Pháp càng nhiệt thành và mạnh mẽ.
9.
Ngũ căn
Tín
căn bao gồm đức tin thông thường và đức tin được tu tập do pháp
hành thiền
Tấn
căn bao gồm tinh tấn thông thường và tinh tấn được trao dồi bằng
pháp hành thiền, hoặc thân tinh tấn và tâm tinh tấn
Niệm căn là vững chắc
thiết lập chú niệm vào thân, tức vào hơi-thở-ra và hơi-thở-vào và trau giồi
pháp quán niệm, cho đến Chánh Niệm Siêu Thế, như là một chi của Ðạo siêu thế.
Ðịnh căn loại trừ tình trạng tâm phóng
dật khi được áp đặt vào pháp Niệm Xứ, như đề mục Niệm Hơi Thở.
Tuệ
căn loại trừ tình trạng tâm rối loạn và mơ hồ.
10.
Ngũ lực
Bao gồm tín lực, tấn lực, niệm lực, định lực, tuệ
lực.
Đối ngịch lại có tham ái, lười biếng, thất niệm,
loạn động, si mê
11.
Thất giác chi
Bao gồm niệm giác chi, trạch pháp giác chi, tinh
tấn giác chi, phỉ giác chi, khinh an giác chi, định giác chi, xả giác chi.
12.
Bát chánh đạo
Tuệ: chánh kiến,
chánh tư duy
Giới: chánh ngữ, chánh nghiệp, cháng mạng
Định: chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định
Giới: chánh ngữ, chánh nghiệp, cháng mạng
Định: chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định
(Hòa thượng Ledi
Sayadaw, 37 phẩm trợ đạo, Phạm Kim Khánh dịch, Một toát yếu về những yếu tố cần
thiết cho sự giác ngộ, xem ngày 5/10/2014, http://www.budsas.org/uni/u-37bd/37bd-00.htm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét