Thứ Ba, 25 tháng 11, 2014

Thiền ngồi - Bài số 1


Thiền ngồi – Bài số 1

1. Thở vào, bụng phồng lên, niệm “phồng à”.
Thở ra, bụng xọp xuống, niệm “xọp à”.
Thở vào, ghi nhận bụng phồng lên, niệm “phồng à”.
Thở ra, ghi nhận bụng xọp xuống, niệm “xọp à”.
Thở vào, phồng à.
Thở ra, xọp à.
Suy nghĩ đến một đối tượng nào đó, niệm “phóng tâm à”.
Không còn suy nghĩ đến đối tượng nào đó, niệm “hết phóng tâm à”.

2. Ngồi theo tư thế kiết già, sau khi điều thân, hành giả bắt đầu quán sát sự phồng xọp của bụng. Tâm đặt nơi bụng, khu vực đan điền, dưới rốn khoảng 2-3cm, tùy theo cơ địa của mỗi người.

3. Chú tâm vào đan điền, ghi nhận sự phồng lên xọp xuống của bụng. Thở chủ yếu là thở bằng bụng. Thở vào, bụng phồng lên, ghi nhận sự phồng lên của bụng và niệm “phồng à”. Thở ra, bụng xọp xuống, ghi nhận sự xọp xuống của bụng và niệm “xọp à”. Niệm bằng tâm không nhất thiết phải nhép miệng hay thành tiếng.

4. Niệm “phồng à, xọp à” thì bụng phồng lên là nhân và bụng xọp xuống là quả, và tiếp theo bụng xọp xuống là nhân và bụng phồng lên là quả. Phồng lên xọp xuống và xọp xuống phồng lên cứ nối tiếp nhau, vì thế nhân quả và quả nhân cũng nối tiếp nhau. Điều này cũng minh chứng cho sự vô thường. Bụng không thể phồng mãi mà đến lúc phải xọp xuống. Cũng vậy, bụng không thể xọp mãi mà đến lúc phải phồng lên.

5. Trong lúc ghi nhận phồng xọp mà phát sinh suy nghĩ đến một đối tượng nào đó như hình ảnh của Phật, mẹ, con vật, đồ vật hay một hiện tượng thì niệm “phóng tâm à”. Niệm như vậy liên tục cho tới khi việc suy nghĩ đến đối tượng không còn nữa thì niệm “hết phóng tâm à”. Đối tượng phóng tâm cũng mang tính chất vô thường vì phóng tâm đến lúc nào đó cũng hết phóng tâm. Lúc này, hành giả quay trở lại theo dõi phồng xọp của bụng.

6. Ngồi một hồi thấy mỏi lưng, tê chân, nhức mông thì niệm “mỏi à”, “tê à”, “nhức à” cho đến khi sự mỏi, sự tê, sự nhức không còn nữa. Tuy nhiên việc niệm vẫn chưa giúp cho cơ thể bớt đau nhức thì nên xả thiền và xoa bóp tay, chân và cơ thể để máu huyết lưu thông. Ghi nhận các cử động khi xoa bóp và niệm “xoa bóp à”. Không còn xoa bóp nữa thì niệm “không xoa bóp à”. Hành giả quay trở lại thực tập tiếp sau đó.

7. Có lúc niệm "phồng à, xọp à" rồi nó mất, mất là thấy không niệm nữa hoặc quên niệm. Hành giả có trí nhớ, biết mất hoặc biết quên, niệm "biết à". Nếu phồng xọp không trở lại, niệm "biết à" thì phồng xọp trở lại như cũ, tức là nhận ra phải niệm phồng xọp. Trường hợp phồng xọp mất, nên chú tâm ở bụng và nhớ rằng niệm là nhân, biết là quả.

8. Niệm "phồng à" thấy bụng phồng lần lần, đến một mức nào phồng không được nữa, là khổ, tức nhiên phải xọp, niệm "xọp à". Xọp đến một mức nào, chịu không được, là khổ, phải phồng lại, ... Có lúc niệm thấy phồng xọp rất nhanh, có lúc phồng xọp rất chậm, có lúc phồng xọp mất, đó là sự vô thường của hơi thở. Hành giả nhận thấy tự mình không điều khiển được hơi thở, đó là vô ngã.

9. Ngồi niệm phồng xọp, thấy nhiều cảnh vật, ánh sáng, sông núi, chùa, tháp, có khi thấy ba mẹ, thấy Phật, như đã nói ở trên. Nếu niệm "thấy à" hoặc “phóng tâm à” mà các hiện tượng lâu mất, có nghĩa là chưa đạt được tuệ thấy sinh diệt của danh sắc. Nếu niệm "thấy à" hoặc “phóng tâm à” mà các hiện tượng mất liền, thì đạt được tuệ thấy sinh diệt của danh sắc. Các ấn chứng phát sinh lên cho thấy là sắc, biết sự phát sinh này là danh. Khi niệm "thấy à" mà ấn chứng mất là diệt. Đó là sự sinh diệt của danh sắc.


10. Thực tập cho đến khi thuần thục và đạt đến mức độ an trụ tâm tốt đẹp, lúc này hành giả có thể qua bài tiếp theo.  

Thứ Sáu, 21 tháng 11, 2014

Kinh PHÁP DIỆT TẬN


Kinh PHÁP DIỆT TẬN 

1. Như thật tôi nghe, một thời Đức Phật ở thành Câu-thi-na. Như Lai sẽ nhập niết-bàn trong vòng ba tháng nữa, nên các tỷ-khưu, tỷ-khưu ni cũng như vô số các loài hữu tình đến để cung kính đảnh lễ. Thế tôn tĩnh lặng , ngài không nói một lời và hào quang không xuất hiện. Ngài A-nan cung kính đảnh lễ và hỏi:
“Bạch Thế tôn, từ trước đến nay khi nào Thế tôn thuyết pháp, ánh sáng oai nghi của Thế tôn đều tự nhiên xuất hiện, nhưng hôm nay trong đại chúng, không thấy ánh hào quang ấy từ Thế tôn tỏa ra nữa, chắc hẳn có nhân duyên gì, chúng con mong muốn nghe Đức Thế tôn giảng giải.”
2. Đức Phật vẫn im lặng không trả lời, cho đến khi A-nan cầu thỉnh đến ba lần, lúc đó Đức Phật mới bảo A-nan:
“Sau khi Như Lai nhập niết-bàn, khi giáo pháp bắt đầu suy yếu, trong đời ngũ trược ác thế, ma đạo sẽ rất thịnh hành, ma quỷ biến thành sa-môn, xuyên tạc phá hoại giáo pháp của ta. Chúng mặc y phục thế tục, ưa thích y phục đẹp đẽ, cà sa sặc sỡ; uống rượu, ăn thịt; giết hại sinh vật tham đắm mùi vị; không có lòng từ, thường mang sân hận, đố kỵ lẫn nhau.
3. “Vào lúc ấy, sẽ có các vị Bồ-tát, Bích-chi Phật, A-la-hán hết sức tôn kính, siêng năng tu đức, được mọi người kính trọng tiếp đãi, họ đều giáo hóa bình đẳng. Những người tu đạo này thường cứu giúp kẻ nghèo, quan tâm người già, cứu giúp người gặp cảnh nghèo cùng khốn ách. khuyến khích mọi người thờ phượng, hộ trì kinh tượng. Họ thường làm công đức, hết lòng từ bi làm lành, không hại kẻ khác. hy sinh giúp đỡ không tự lợi mình , thường nhẫn nhục nhân hòa.
4. “Nếu có những người như vậy, thì các tỷ-khưu tà ma đều ganh ghét họ, ma quỷ sẽ nổi ác phỉ báng, xua đuổi trục xuất các vị tỷ-khưu chân chính ra khỏi tăng viện. Sau đó, các tỷ-khưu ác ma này không tu đạo đức, chùa chiền tu viện sẽ bị hoang vắng, cỏ dại mọc đầy. Do không chăm sóc bảo trì, chùa chiền trở thành hoang phế và bị lãng quên, các tỷ-khưu ác ma sẽ chỉ tham lam tài vật tích chứa vô số của cải không chịu buông bỏ, không tu tạo phước đức.
5. “Vào lúc đó các ác ma tỷ-khưu sẽ buôn bán nô tỳ để cày ruộng, chặt cây đốt phá núi rừng, sát hại chúng sanh không chút từ tâm. Những nam nô trở thành các tỷ-khưu và nữ tỳ thành tỷ-khưu ni không có đạo đức, dâm loạn dơ bẩn, không cách biệt nam nữ. Chính những người này làm đạo suy yếu phai dần. Những người chạy trốn luật pháp sẽ tìm đến quy y trong đạo của ta, xin làm sa-môn nhưng không tu giới luật. Giữa tháng cuối tháng tuy có tụng giới, nhưng chỉ là trên danh nghĩa. Do lười biếng và phóng dật, không còn ai muốn nghe nữa. Những ác sa-môn này sẽ không muốn tụng toàn văn bản kinh, tóm tắt đoạn đầu và cuối bản kinh theo ý của họ. Chẳng bao lâu, việc tụng tập kinh điển cũng sẽ chấm dứt. Cho dù vẫn còn có người tụng kinh, nhưng họ lại không hiểu câu văn. vẫn khăng khăng cho họ là đúng, tự phụ, kiêu căng mong cầu danh tiếng, ra vẻ tao nhã để mong cúng dường.
6. Khi mạng căn của các ma ác tỷ-khưu này chấm dứt, thần thức của họ liền đọa vào địa ngục A-tỳ. Đã phạm phải 5 tội trọng, nên họ phải tái sinh liên tục chịu khổ trong loài quỷ đói và súc sinh. Họ sẽ nếm những nỗi thống khổ trong vô số kiếp nhiều như cát sông Hằng. Khi tội hết, họ sẽ tái sinh ở những vùng biên địa, nơi không có Tam bảo lưu hành.
7. “Khi chánh pháp sắp biến mất, phụ nữ sẽ trở nên tinh tấn và thường làm việc công đức. Đàn ông sẽ trở nên lười biếng và sẽ không còn ai giảng pháp . Những vị sa-môn chân chính sẽ bị xem như đất phân và không ai tin ở các vị ấy nữa. Khi chánh pháp sắp suy tàn, chư Thiên sẽ bắt đầu khóc lóc, sông sẽ khô cạn và năm thứ cốc loại không chín (mất mùa, đói kém). Bệnh dịch thường xuyên xảy ra, cướp đi vô số mạng người. Dân chúng phải làm việc cực khổ, quan chức địa phương mưu tính lợi riêng, không thuận theo đạo lý, đều ưa thích rối loạn. Người ác gia tăng nhiều như cát dưới biển, người thiện rất ít, hầu như chỉ có được một hoặc hai người.
8. “Khi kiếp sắp hết, vòng quay của mặt trời và mặt trăng trở nên ngắn hơn và mạng sống của con người giảm lại. Bốn mươi tuổi đầu đã bạc . Đàn ông dâm dục, cạn kiệt tinh dịch nên sẽ chết trẻ, thường là trước 60 tuổi. Khi mạng sống của nam giới giảm, thì mạng sống cuả nữ giới tăng đến 70, 80, 90 hoặc đến 100 tuổi.
9. "Những dòng sông lớn sẽ dâng cao bất thường không đúng với chu kỳ tự nhiên, nhưng con nguời không để ý hoặc không quan tâm. Khí hậu khắc nghiệt được xem là điều bình thường. Người các chủng tộc lai tạp lẫn nhau không phân quý tiện, chìm đắm, trôi nổi như cá rùa kiếm ăn. "
10. "Lúc đó các vị Bồ-tát, Bích-chi Phật, A-la-hán bị chúng ma xua đuổi trục xuất không còn cùng dự trong chúng hội . Giáo lý Tam thừa vẫn được lưu hành ở vùng hẻo lánh, những người tu tập vẫn tìm thấy sự an lạc và thọ mạng kéo dài. Chư thiên sẽ bảo vệ và mặt trăng sẽ chiếu sáng họ, giáo pháp Tam thừa sẽ có dịp hòa nhập và chính đạo sẽ hưng thịnh. Tuy nhiên, trong năm mươi hai năm, kinh Thủ-lăng-nghiêm và Kinh Bát-chu Tam-muội sẽ bị sửa đổi trước tiên rồi biến mất. Mười hai bộ kinh sau đó sẽ dần dần bị tiêu trầm cho đến khi hoại diệt hoàn toàn và không bao giờ xuất hiện lại nữa. Văn tự kinh điển sau đó hoàn toàn không được biết đến, giới y của sa-môn sẽ tự bị biến thành màu trắng."
11. "Khi giáo pháp của ta sắp biến mất, cũng giống như ngọn đèn dầu tỏa sáng lên trong chốc lát trước khi tàn lụi, chánh pháp cũng bừng sáng rồi suy tàn. Từ đó về sau khó nói chắc được điều gì sẽ xảy ra."
"Thời kỳ này sẽ kéo dài suốt mười triệu năm. Khi Đức Di-lặc sắp thị hiện ở thế gian để thành vị Phật tiếp theo, các cõi nước đều được hoàn toàn an vui. Khí độc sẽ bị tiêu tán, mưa nhiều và đều đặn, năm thứ cốc loại tươi tốt , cây cối sum suê cao lớn, và loài người sẽ cao đến tám trượng (hơn 24 mét) tuổi thọ trung bình của con người sẽ đến 84.000 năm, chúng sanh được độ khó có thể tính đếm được."
12. Ngài A-nan thưa thỉnh Đức Phật :
"Bạch Thế tôn, chúng con nên gọi Kinh này là gì, và làm thế nào để phụng trì kinh ấy?"
Đức Phật bảo :
"Này A-nan, kinh này gọi là Pháp Diệt Tận. Hãy dạy cho mọi người truyền bá rộng rãi kinh này. Những ai truyền bá kinh nầy, công đức của những người ấy không thể nghĩ bàn, không thể nào tính đếm được."

13. Khi bốn chúng đệ tử nghe nói kinh này rồi, họ đều rất đau lòng và buồn tủi, mỗi người đều phát tâm tu đạo để đạt đến quả vị Thánh tối thượng, họ cung kính đảnh lễ Đức Phật rồi lui ra.

(Thích Nhuận Châu dịch Việt ngữ, Đức Phật thuyết kinh Pháp diệt tận, Đại chánh tạng quyền 13, Hiệt 1118 số 396 Niết Bàn Bộ, xem ngày 22/11/2014, http://www.dharmasite.net/KinhPhapDietTan.htm) 

Chủ Nhật, 5 tháng 10, 2014

Thức ăn của các pháp



THỨC ĂN CỦA CÁC PHÁP

1. Bốn hạng người có khả năng thành tựu con đường

Hạng hiểu được tức khắc, người đã gặp một vị Phật và có đủ khả năng thành tựu đạo và quả sau khi nghe ngài giảng một thời pháp ngắn gọn.

Hạng chúng sinh không đủ khả năng thành tựu đạo quả sau khi nghe một thời pháp ngắn do đức Phật giảng, nhưng có đủ khả năng chứng ngộ đạo quả khi thời pháp ngắn kia được giảng rộng thêm

Hạng chúng sanh không thể chứng đắc đạo quả khi được nghe một thời Pháp ngắn do đức Phật giảng hoặc khi nghe thời Pháp ấy được giảng rộng thêm nhưng cần phải học hỏi, thận trọng ghi chép, và nghiền ngẫm suy tư về những lời dạy được trình bày rồi đem ra tu tập thực hành nhiều ngày, nhiều tháng và nhiều năm, mới có thể thành tựu đạo quả.

Hạng tùy theo thời gian tu tập cần thiết để có thể chứng đắc đạo quả, và hơn nữa, tùy thuộc số lượng ba-la-mật, và số ô nhiễm mà mỗi người đã tích trữ trong luồng nghiệp. Những hạng này cần một thời gian bảy ngày hoặc cần đến ba mươi hoặc sáu mươi năm chí công tu tập thực hành.

2. Ba loại bệnh nhân
Một loại bệnh nhân chắc chắn sẽ được lành bệnh đúng lúc, dầu không uống thuốc hay được chữa trị.

Một bệnh nhân chắc chắn sẽ không được phục hồi và sẽ chết vì chứng bệnh, dầu chữa trị và uống thuốc cách nào.

Một bệnh nhân sẽ được phục hồi nếu thuốc men thích nghi, được chữa trị đầy đủ và đúng mức, nhưng sẽ không được phục hồi và sẽ chết nếu không dùng đúng thuốc và chữa trị thích nghi.

3. 15 hạnh bố thí
Giới
Thu thúc sáu căn
Ẩm thực độ lượng
Tỉnh thức
Bảy đặc tính của người tốt và có đức hạnh: đức tin, niệm, hổ thẹn tội lỗi, ghê sợ hậu quả của tội lỗi, học nhiều hiểu rộng, tinh tấn, trí tuệ
Tứ thiền, bốn tầng thiền sắc giới

4. Bảy giai đoạn thanh tịnh
Giới tịnh
Tâm tịnh
Kiến tịnh
Đoạn nghi tịnh
Đạo phi đạo tri kiến tịnh
Đạo tri kiến tịnh
Tri kiến tịnh

5. 37 phẩm trợ đạo gồm 7 nhóm
TỨ NIỆM XỨ

4
1. Niệm thân
2. Niệm thọ
3. Niệm tâm
4. Niệm pháp
TỨ CHÁNH CẦN

4
1. Tinh tấn lánh xa ác pháp đã phát sanh
2. Tinh tấn ngăn ngừa ác pháp chưa sanh
3. Tinh tấn phát triển thiện pháp chưa sanh
4. Tinh tấn tăng trưởng thiện pháp đã sanh
TỨ THẦN TÚC

4
1. Dục như ý túc
2. Tấn như ý túc
3. Tư duy như ý túc
4. Trạch quán như ý túc
NGŨ CĂN

5
1. Tín căn
2. Tấn căn
3. Niệm căn
4. Ðịnh căn
5. Tuệ căn
NGŨ LỰC

5
1. Tín lực
2. Tấn lực
3. Niệm lực
4. Ðịnh lực
5. Tuệ lực
THẤT GIÁC CHI

7
1. Niệm giác chi
2. Trạch pháp giác chi
3. Tinh tấn giác chi
4. Phỉ giác chi
5. Khinh an giác chi
6. Ðịnh giác chi
7. Xả giác chi
BÁT CHÁNH ĐẠO

8
1. Chánh kiến
2. Chánh tư duy
3. Chánh ngữ
4. Chánh nghiệp
5. Chánh mạng
6. Chánh tinh tấn
7. Chánh niệm
8. Chánh định

6. Tứ niệm xứ:
Thân quán niệm xứ, vắn tắt gọi Niệm thân, là sự chú niệm kiên cố áp đặt vào những hiện tượng của thân, như hơi-thở-vào và hơi-thở-ra.

Thọ quán niệm xứ, vắn tắt gọi Niệm thọ, là sự chú niệm kiên cố áp đặt vào những cảm thọ.

Tâm quán niệm xứ, vắn tắt gọi Niệm tâm, là sự chú niệm kiên cố áp đặt vào những tư tưởng hay những tiến trình tâm, như ý nghĩ liên hợp hoặc không liên hợp với khát vọng.

Pháp quán niệm xứ, vắn tắt gọi Niệm pháp, là sự chú niệm kiên cố áp đặt vào những hiện tượng như những chướng ngại tinh thần (pháp triền cái)…

7. Tứ chánh cần
Tinh tấn chế phục hoặc loại trừ những hành động bất thiện đã khởi sanh, hoặc đang trên đà phát sanh;

Tinh tấn xa lánh (chẳng những trong kiếp sống hiện tiền mà luôn cả trong những kiếp về sau), ngăn ngừa những hành động bất thiện chưa phát sanh, không để cho nó khởi sanh;

Tinh tấn làm phát sanh những hành động thiện chưa khởi sanh;

Tinh tấn tăng trưởng và duy trì bền lâu những hành động thiện đã khởi sanh hoặc trên đà phát sanh.

Những hành động bất thiện đã phát sanh là những nghiệp bất thiện đã tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Các nghiệp này bao gồm những hành động bất thiện có tác ý, bằng thân, khẩu, ý, mà mình đã làm trong chuỗi dài vô tận những chu kỳ thế gian và trong những kiếp sống quá khứ.

Những nghiệp bất thiện chưa phát sanh là những  nghiệp bất thiện, trong tương lai. Trong kiếp sống nầy, bắt đầu từ khoảnh khắc kế tiếp trong đời sống hiện tại, tất cả những nghiệp bất thiện mới của ta mỗi khi phát sanh, bất luận lúc nào trong kiếp hiện tiền và trong chuỗi dài những kiếp sau đó, chưa phát sanh. 

Công trình dập tắt nghiệp bất thiện của những hành động đã và chưa phát sanh là loạị trừ Thân kiến bên trong chính mình, không có gì khác.

8. Tứ như ý túc
Dục như ý túc có nghĩa (nhiệt tâm), nóng lòng mong muốn được có, hết lòng muốn thành đạt, muốn tiến đến, muốn hoàn tất viên mãn, muốn thành tựu. ý muốn ở đây là cực kỳ mong muốn, ý muốn ở mức cao độ. Không có bất luận chi, bên trong hay bên ngoài cá nhân ta có thể cản ngăn lòng ham muốn ấy. Ðây là loại ham muốn đưa đến ý nghĩ, "Nếu không thành đạt điều nầy trong kiếp sống hiện tại ắt ta không thể an tâm. Thà chết còn hơn sống mà không làm được như ý nguyện."

Tấn như ý túc, là chánh cần. Người có đức hạnh chuyên cần như vậy tự thấm nhuần ý nghĩ rằng mục tiêu có thể thành tựu nếu mình tận lực cố gắng. Người ấy không rủn chí dầu có ai bảo rằng mình sẽ trải qua trăm ngàn khó khăn khổ nhọc. Ngưòi ấy không sờn lòng dầu thật sự gặp những hoàn cảnh cực kỳ gian lao kham khổ. Người ấy không thối chí dầu nghe nói rằng mình phải gia công tinh tấn trong nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm. Người ấy không nản lòng dầu thật sự gia công tinh tấn chuyên cần suốt thời gian lâu dài như thế ấy.

Tâm như ý túc, có nghĩa bám chặt vào những thành công, khi gặp Giáo Huấn và nghe Giáo Pháp. Ðây là sự bám níu cực kỳ nhiệt thành và dõng mãnh.

Trạch quán như ý túc có nghĩa: sáng suốt hiểu biết rõ ràng, nhận chân tầm quan trọng của những khổ đau trong cảnh địa ngục, và những hoàn cảnh bất hạnh triền miên trải dài theo vòng quanh những kiếp sinh tồn của vòng luân hồi. Ðó là sự hiểu biết có thể nhận thấy lợi ích đặc thù của như ý túc. Ðó là sự hiểu biết có thể tiềm ẩn và sâu kín nằm trong những pháp khó hiểu, và trong bản chất của những pháp khó thấu ấy. Một người đã có nhiều hiểu biết như thế không còn tìm vui thích trong cuộc rượt bắt những lạc thú trần tục, ngoại trừ chạy theo những như ý túc. Người ấy chỉ mãn nguyện khi nắm vững những như ý túc, uyên thâm và sâu thẳm. Giáo Pháp càng thâm sâu, nguyện vọng thành đạt Giáo Pháp càng nhiệt thành và mạnh mẽ.

9. Ngũ căn
Tín căn bao gồm đức tin thông thường và đức tin được tu tập do pháp hành thiền
Tấn căn bao gồm tinh tấn thông thường và tinh tấn được trao dồi bằng pháp hành thiền, hoặc thân tinh tấn và tâm tinh tấn
Niệm căn là vững chắc thiết lập chú niệm vào thân, tức vào hơi-thở-ra và hơi-thở-vào và trau giồi pháp quán niệm, cho đến Chánh Niệm Siêu Thế, như là một chi của Ðạo siêu thế.
Ðịnh căn loại trừ tình trạng tâm phóng dật khi được áp đặt vào pháp Niệm Xứ, như đề mục Niệm Hơi Thở.
Tuệ căn loại trừ tình trạng tâm rối loạn và mơ hồ.

10. Ngũ lực
Bao gồm tín lực, tấn lực, niệm lực, định lực, tuệ lực.
Đối ngịch lại có tham ái, lười biếng, thất niệm, loạn động, si mê

11. Thất giác chi
Bao gồm niệm giác chi, trạch pháp giác chi, tinh tấn giác chi, phỉ giác chi, khinh an giác chi, định giác chi, xả giác chi.

12. Bát chánh đạo
Tuệ: chánh kiến, chánh tư duy
Giới: chánh ngữ, chánh nghiệp, cháng mạng
Định: chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định

(Hòa thượng Ledi Sayadaw, 37 phẩm trợ đạo, Phạm Kim Khánh dịch, Một toát yếu về những yếu tố cần thiết cho sự giác ngộ, xem ngày 5/10/2014, http://www.budsas.org/uni/u-37bd/37bd-00.htm)

Thứ Tư, 1 tháng 10, 2014

Vấn đáp: Tu không tiến, sinh tâm hoài nghi về sự thực tập của mình?


Vấn đáp: 
Tu không tiến, sinh tâm hoài nghi về sự thực tập của mình?
Giảng vào ngày 14-12-2014
1. Cách đối trị và chuyển hóa năng lượng ái dục?

Trường hợp bị ái dục sai sử, nhất là về mặt tình dục, Đức Phật có dạy mình nên Quán Cửu Tưởng, bên cạnh thực tập quán Thanh Tịnh. Quán Thanh Tịnh là quán thân thể là đền thờ tâm linh. Không có suy nghĩ dính mắc xác thân hay tư tưởng là để bảo hộ đền thờ tâm linh của mình và người. Mình có thể quán những cách khác như hậu quả của ái dục, nghĩa là việc hành lạc sẽ xảy ra hậu quả gì? Ái dục đó sẽ dẫn mình đi đến chỗ nào? Mình có thể tiếp tục con đường tu học và cứu độ chúng sinh hay không? Giới thứ ba của Sa Di có đoạn: Con biết hành động dâm dục sẽ làm tan vỡ đời sống tu học của con và khó có khả năng giải thoát và cứu độ chúng sinh. Đó là giới bảo vệ tiết hạnh. Con biết hành động, suy nghĩ ái dục có thể sẽ làm tan vỡ đời sống tu học  mà con đã xây dựng mấy năm nay, nên con quyết chí điều phục ái dục đó bằng sự tỉnh thức, bằng sức niệm và chấm dứt ái dục.

2. Người nhà đi xem bói, gây hoang mang cho người khác?

Sở dĩ người nhà thường đi coi bói, làm phiền người này người kia là do người đi trước trao truyền. Xung quanh ai cũng coi bói, ai cũng nói chuyện vong linh nên người này đã được tiếp nhận những câu chuyện đó, đóng thành nội kết sâu dầy, khó có thể chuyển hóa được. Trừ khi có chuyện gì lớn lao xảy tới thì mới có điều kiện thuận duyên chuyển hóa. Nhìn thấy điều này thì mình sẽ biết người đáng thương, vào lúc thích hợp nên chia sẻ nếu như họ chịu lắng nghe. Không chịu lắng nghe thì có nói cách mấy cũng không lọt lỗ tai.  Một số lần tôi chia sẻ rằng nếu ai muốn thực tập cùng hoặc học thiền thì hãy để tự người đó đề nghị, mình không nên đề nghị trước,  vì có một vài giáo lý mình thực tập có thể không phù hợp với cách nhìn của họ ở hiện tại. Phật giáo nguyên thủy nói đến phương pháp thực tập được áp dụng từ thời đức Phật, còn khi làm mới quá mức hoặc thâu nhập thêm thì vô hình chung Phật giáo bị lai căng, xa rời sự thật. Pháp môn nào phù hợp với tinh thần Phật Giáo thì đều có thể áp dụng, giúp mình an trú trong hiện tại và chuyển hóa được khổ đau của mình.

3. Tưởng uẩn và tâm có mối liên hệ như thế nào, có là một? Ý thức và tưởng có mối liên hệ ra sao?

Năm uẩn bao gồm sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Nhận biết năm uẩn là tâm. Năm uẩn tương tức với nhau, có thể nói cái này là cái kia. Có thể nói sắc là tâm hành, thọ là thân, tưởng là tâm hành, tâm hành là sắc. Chữ “là” ở đây không có nghĩa là dấu bằng, mà là nói tới sự tương tức giữa cái này và cái kia, bởi vì mình không thể tách cái này ra khỏi cái kia được. Năm uẩn biểu hiện, nhờ duyên mà biểu hiện ra nhau để tạo thành sự sống của con người. Mình biểu hiện là nhờ năm uẩn tương tác nhau.

Nói về tàng thức (duy thức học) thì tâm có hai phần đó là ý thức và tàng thức. Phật giáo Nam Tông không nói về điều này, chỉ nói về tâm và sở hữu tâm (danh pháp). Tàng thức là khu vực chứa đựng trong kiếp hiện tại, trong phần thời gian quá khứ của kiếp hiện tại cũng như các kiếp trước đó. Tàng thức là nơi chứa nghiệp thì cũng có thể chấp nhận được. Tàng thức còn chứa những điều tốt đẹp chứ không riêng gì những nghiệp xấu, còn có nghiệp thiện và không thiện, nghiệp vừa thiện vừa không thiện, nghiệp không thiện cũng không không thiện.

Khi thực tập nghiệp thiện dày đặc thì giúp chuyển hóa được những nghiệp bất thiện, mình sẽ vẫn phải trả nghiệp nhưng mà nghiệp bất thiện sẽ giảm đi phần nhiều. Ý thức cũng là biểu hiện của nghiệp, không chỉ riêng tàng thức, tại vì do năng lực của nghiệp mà mình có ý thức như mình đang có, còn tàng thức là nơi chứa những nghiệp mình đã tạo trong khi ý thức là sự biểu hiện của nghiệp. Nghiệp xa xưa tác động tới ý thức. Ví dụ, Phật pháp đang sờ sờ ra đấy nhưng do nghiệp quá khứ mà không tiếp xúc được, không ý thức được việc thực tập Phật pháp để có hạnh phúc, chuyển hóa những khổ đau, cho nên tàng thức khiến cho ý thức không có phẩm chất cao trong thời điểm có ý thức về một đối tượng nào đó.

Đặt ý niệm vào một đối tượng nào đó sẽ sinh ra phân biệt. Không có ý niệm, tức là có ý thức một cách đơn thuần, đó là chánh niệm. Còn đặt ý niệm về một đối tượng thì là tà niệm. Tà niệm còn mang ý nghĩa là niệm bất thiện, nhưng nếu thực tập sâu sắc sẽ thấy, đặt ý niệm với tâm phân biệt, không buông xả được. Căn tiếp xúc với trần tạo ra cảm giác – thọ. Có những thọ như thế mà sinh ra phân biệt. Nhận biết những thọ đó là tâm. Dính mắc vào tri giác, tưởng nó là thật, tức là vọng tưởng điên đảo.

4. Có phải chánh niệm thường đến sau tâm hành phát khởi?

Thời gian ban đầu thực tập, chánh niệm thường đến sau tâm ít nhất một nhịp. Chánh niệm về tâm miên mật thì tâm không phát khởi, tâm lặng im. Niệm tâm là niệm sở hữu tâm. Tâm biết sở hữu tâm nào phát khởi, đang diễn ra và kết thúc. Có khoảng thời gian ngồi xuống thực tập riêng thì sẽ thấy nhẹ hơn. Niệm chậm hơn là việc bình thường, có tâm phát khởi mới niệm được, còn không phát khởi thì niệm chi.  Chỉ biết tâm đang không ở trong tình trạng như vậy. Ví dụ, tham phát khởi biết tâm tham đang phát khởi. Vô tham phát khởi biết vô tham đang phát khởi. Niệm tham thì cũng niệm vô tham. Lấy cái tham ra làm đối tượng của niệm. Tâm còn phát khởi thì thì còn phải niệm. Không tham thì biết đang không tham, hoặc đang không có ái dục thì niệm là biết đang không có ái dục.

5. Khi ngồi thiền muốn ngồi cho mau xong, cách đối trị?
Ngồi thiền mà muốn ngồi cho mau để đi ngủ hoặc làm việc khác là tình trạng móng tâm. Suy nghĩ hết chuyện này đến chuyện kia là tình trạng lăng xăng hay trạo cử. Nghĩ đến chuyện khác ngoài việc theo dõi phồng xọp của bụng là phóng tâm. Móng tâm thì niệm móng tâm à, lăng xăng thì niệm lăng xăng à, phóng tâm thì niệm phóng tâm à”… cho đến khi lắng dịu xuống và quay trở lại bài thiền. Để giảm bớt lăng xăng thì có thể thực tập sổ tức. Đếm hơi thở giúp tâm an trước khi chính thức đi vào những bài thiền tuệ, có thể đi thiền hoặc thiền buông thư giúp thư giãn, và nhớ là trước khi ngồi thiền hãy đọc Kinh Từ bi, ghi nhớ lời đức Phật dạy:

Nguyện tình thương cả thảy chúng sinh
Như lòng mẹ luôn luôn cần mẫn
Trăm cay nghìn đắng vẫn vui cười
Dù cho sinh mạng mất tất cả
Tình thương vẫn bao la thiên hạ
Từ bi thênh thang như trời xanh.

Muốn có từ bi thênh thang như trời xanh thì quán sát tâm trong lúc ngồi thiền, làm cho tâm tươm ra những giọt từ bi. Thực tập xong thì rải tâm từ đến tất cả chúng sinh.

Ngày xưa đức Phật phát nguyện rằng: Nếu như chưa thành đạo thì tôi quyết chí không đứng lên, không rời khỏi cội Bồ Đệ này.

6. Trong công việc, người làm không chịu làm đúng những hướng dẫn của mình. Mình nổi giận. Cách đối trị?

Không có ai là hoàn hảo cả. Đức Phật cũng có những nỗi buồn. Ngày xưa đức Phật buồn đệ tử và vô rừng ở một mình. Đức Phật đi thì không ai cúng dường cho tăng thân nên những vị gây xào xáo trong tăng thân ấy mới vào rừng mời đức Phật ra trở lại.

Nếu người làm việc không theo ý mình, vấn đề một phần là mình. Thứ nhất là do mình không chỉ cho người cặn kẽ. Thứ hai là chu trình giám sát công việc không rõ ràng nên người lơ là trong công việc. Thứ ba là sự dẫn dắt của mình hay của người khác trong công việc chưa chuyên nghiệp. Lời nói của mình không có trọng lượng lắm, nói người không có nghe. Sự nóng giận không phải do người kia mà từ mình. Lúc nóng giận, quán chiếu mình đã làm gì mà người đó làm cho mình giận và mình đã làm gì mà mình giận thế này, chứ không phải đổ tại người kia đã làm mình giận.

Để tránh cho sự giận dữ không xảy ra thì quán chiếu trước, trong và sau cơn giận. Trước cơn giận thì quán chiếu: Vì đâu mà người có lời nói như vậy? Lời nói đó có đáng để giận hay không và thời điểm mà xung quanh có nhiều người thì có phải thời điểm mình giận không? Có bài kệ về giận như sau:

Người giận người không đẹp
Mặt mũi như cơm thiu
Trống vắng như chợ chiều
Mây nước cũng đìu hiu.

Người hay giận sẽ bị sụt một kí. Bữa nay có người nói với tôi bị sụt một kí đúng không? Sau cơn giận thì quán chiếu: Nếu cơn giận qua rồi thì hậu quả như thế nào, cơn giận này sẽ dẫn tới hậu quả gì và thực tập như thế nào để chuyển hóa cơn giận. Có nhiều nguyên nhân để khiến mình giận. Thứ nhất là người không thỏa mãn danh sách mục tiêu của mình. Thứ hai là bị ảnh hưởng tới quyền lợi, phần lớn là do nguyên nhân này. Đi với thực tập thiền tuệ thì cơn giận nổi lên liền biết cơn giận phát khởi, cơn giận đang diễn ra thì biết đang diễn ra và niệm cho đến khi cơn giận kết thúc. Cơn giận kết thúc thì biết là kết thúc. Người được cho là làm mình giân kia có thể do chưa biết cách làm, chưa biết cách ăn nói, tay nghề chưa cao, tính chểnh mảng vẫn còn… dẫn tới công việc chưa hoàn thành, đang cần sự giúp đỡ.

Mình hay bị tưởng rằng khi nói tới một cái tên hay điều gì đó thì tưởng nói tới mình. Vị dụ tôi nói, Mấy cái anh thợ tiện… thế là bạn Tới tưởng ông này nói tới mình. Chừng nào người nào nói gì đó mình im phăng phắc thì sẽ không còn giận nữa, sẽ trở thành người vô tâm. Vô tâm không phải là vô cảm mà là nếu hoàn cảnh dù thuận hay trái ý tác động tới thì mình không còn khởi tâm si mê nữa thì đó là vô tâm. Vô tâm có thể hiểu dễ dàng là không còn phát khởi tâm nào nữa.

Hồi xưa ba của tôi là thợ tiện nên tôi biết công việc của người thợ tiện rất vất vả. Trong lúc làm tiện thì chú tâm vào công việc làm. Nếu chú tâm trọn vẹn thì sản phẩm sẽ không bị lỗi. Tất cả công nhân đều chánh niệm trong công việc thì họ tập trung cao độ hơn rất nhiều. Một số người trong lúc làm việc mở phim, mở nhạc, vừa làm vừa nghe vừa xem, tâm bị phân tán nên công việc không được chú tâm. Người quản lý nên có những điều chỉnh khéo léo sao cho người làm được chú tâm hơn. Ngoài đường, có người vừa chạy xe vừa nghe điện thoại, rất là nguy hiểm, chưa nói tới mình đang chở trẻ em, người già. Không nên xem thường mạng sống của mình và người phía sau. Thực tập bài kệ khi chạy xe:

Xe như con chiến mã
Cẩn trọng không kẻo ngã
Sinh mạng phải trân quý
Dù đi gần hay xa.

Đội nón bảo hiểm cũng có bài kệ:

Chiếc nón bạn đồng hành
Bảo hiểm cả ngày xanh
An toàn là trên hết
Đời đẹp như bức tranh.

Những bài kệ nhắc nhở mình chú tâm trong việc lái xe, đảm bảo an toàn giao thông. Cũng như vậy, trong lúc giận người, hãy nhớ bài kệ mà đọc:

Tuy giận mà lại thương
Thương người còn đau khổ
Cái giận không còn chỗ
Khi vị tha bao dung.

Thực tế tha thứ cho người chính là tha thứ cho chính mình, cho phép bản thân có cơ hội không phải giận nữa. Nếu như người đó là tôi thì có lẽ mình sẽ không có lớn tiếng mà ái ngữ. Thực tập lời ái ngữ trong mọi hoàn cảnh. Dù người ta nói thế nào cũng hãy im lặng, chờ người bình tĩnh mới chia sẻ lại.

7. Tu không tiến, sinh tâm hoài nghi về sự thực tập của mình?

Người tu có một số năng lượng kéo mình đi, không cho mình thực tập. Năng lượng thứ nhất là nghiệp. Ba dòng nghiệp là thiện, bất thiện, không thiện cũng không bất thiện. Ngày xưa làm việc thiện và hồi hướng cho việc tu tập thì tất cả những công đức phước báu có được sẽ dồn vào việc tu tập và tạo thuận duyên cho việc này. Hồi hướng cho những việc khác, ví dụ như làm ăn phát đạt, sắc đẹp, sức khỏe … thì phước đức sẽ đi vào những điều này. Người tu tập thì nghiệp bất thiện sẽ tới đòi nợ và sẽ trì triết, thử thách làm cho mình thối chí. Một trong những điều khiến khởi tâm hoài nghi trong tu tập là những nghiệp bất thiện. Lười nhác, thực tập không đúng phương pháp, dễ duôi… khiến mình đi vào vùng thất niệm hơn là vùng có chánh niệm. Nếu nhận ra điều này thì niệm tâm hành đang biểu hiện. Để sự việc dễ duôi diễn tiến thì sẽ đánh mất cơ hội thực tập Phật Pháp và sẽ rơi vào cạm bẫy của nghiệp bất thiện. Đó là năng lượng thứ nhất.

Năng lượng thứ hai là thiếu phước báu. Không đủ phước báu để thực tập tiếp. Ví dụ có những người thực tập một ngày, một tuần, một tháng, một năm, hay mới chỉ có một kiếp thôi là không có thực tập nữa là vì họ không đủ phước. Phước mà họ gặp Phật pháp để hưởng đã hết rồi mà không tạo ra nữa nên họ không  thể đi tiếp. Chểnh mảng trong sự thực tập là do phước báu đang giảm đi hoặc không trổ ra trong thời gian đó để giúp ích cho sự tu tập. Tu tập là để tạo phước.

Năng lượng thứ ba là những oan trái. Trong tâm còn có những bất thiện và chúng khởi lên sẽ khiến cho đồng đảng bên ngoài lẻn vào. Nghĩ về ái dục mà không có chánh niệm thì những năng lượng ái dục bên ngoài sẽ xâm nhập vào, nội ứng ngoại hợp khiến mình bỏ tu. Nếu tâm nghĩ về ái dục mà có chánh niệm thì năng lượng này sẽ dừng lại và từ từ chuyển hóa, mình sẽ không bị nó sai sử. Nhiều vị đang tu trong chùa rất giỏi, thực tập tới bài số 11 thiền tuệ mà bỏ chạy về nhà không thực tập nữa. Sư phụ phải điện thoại và nhờ vài người tới khuyên giải vì vị này đang bị năng lượng bật thiện bên trong lẫn bên ngoài sai sử.

Trước khi ngồi thiền phải đọc Kinh Từ bi. Thực tập thiền xong phải rải tâm từ tới chúng sinh trong mười phương, đây là phương pháp bên Nam Tông. Bên Nam Tông sử dụng phương pháp rải tâm từ.  Truyền thống Bắc tông thì sử dụng phương pháp hồi hướng. Làm như vậy nhằm mục đích trong lúc hành thiền, những oan trái không kéo mình ra ngoài vùng chánh niệm. Đọc Kinh Từ bi, Kệ Rải tâm từ làm cho những oan trái được hoan hỷ hơn, chuyển hóa được phần nào những oan trái đã có.

Năng lượng thứ tư là do môi trường sống. Sống trong môi trường ít người thực tập hay phải bận rộn lo toan quá nhiều và thực tập một mình. Nhiệm vụ của mình là phải tạo sức lan tỏa cho người xung quanh. Do mới thực tập, năng lượng chưa đủ sức lan tỏa nên trong tâm có sự buồn tủi, cô đơn, chưa vững chãi trong tâm. Có câu, Ăn cơm có canh tu hành có bạn là vì vậy. Nên ở chung với những người bạn đồng tu, những thiện tri thức.

Người tu hành thì nhiều nghiệp bất thiện tới kéo mình để không cho mình tu nữa, nói đó là ma vương nhưng mà thực tế là những nghiệp bất thiện. Nó cứ kéo mình đi không cho mình tu. Do vậy mình sinh tâm hoài nghi: Người ngoài kia đang thụ hưởng đủ thứ tại sao mình lại phải ngồi đây làm chi ? Mà trong khi mình cũng có đủ những điều kiện để hưởng thụ như vậy.  Tại sao phải sống thiểu dục tri túc, ngồi thiền im re, gìn giữ giới luật làm gì? Mình nhớ lại những tháng ngày rong ruổi ngoài đời, thật sung sướng biết bao, giờ ngồi đây cực khổ quá... Sở dĩ có những ý niệm như vậy bởi vì có lối nghĩ rằng tu là khổ, không thực sự nghĩ tu là để tìm tới con đường giải thoát, mở rộng sự tự do. Thực tập giữ giới để tự do, thiền để thư giãn, thực tập tuệ giác mang lại đời sống xa rời khổ đau, đem lại hạnh phúc đích thực.

Ngày xưa đức Phật ngồi thiền dưới cội Bồ Đề thì Ma Vương hiện lên dưới hình dạng những người phụ nữ hòng lôi léo Đức Phật đi ra khỏi cội Bồ Đề thì bây giờ mình bị y chang như vậy. Học cách hành xử của người, đức Phật đã đối trị bằng cách thấy là thân người là bất tịnh, là đại gia hôi thối.

Sắc đẹp mỹ miều chỉ là túi da ô uế mà thôi, ngươi đi chỗ khác ta không có dùng đâu.

Sau đó Ma liền hiện thành nàng Yasodhara trước mặt đức Phật và nói rằng:

Thái tử ơi, em nè.

Bao năm sống khổ hạnh mà nghe lời nói ngọt ngào từ người vợ ai chẳng xiêu lòng. Đức Phật không vậy, người đã cắt đứt luyến ái gia đình, quyết tâm ngồi thiền cho đến khi thành được tất cả, tận thắng Ma Vương. Ma Vương là những phiền não, những bất thiện vẫn còn ngủ ngầm trong tâm, chờ những lúc yếu đuối để bắt mình đi.

Đối với những người đi vào dòng, họ đã chấm dứt được ba cái kẹt. Thứ nhất là tâm kẹt vào thân, thân kiến. Thân này của ta, là ta. Thứ hai là giới cấm thủ, đây là một tà kiến. Ví dụ như mình cho rằng ngày mùng 5 là ngày xấu không nên khai trương công ty, tin vào ngày tốt, ngày xấu cũng là một kiểu giới cấm thủ. Đã tu rồi thì ngày nào cũng là ngày của Phật, ngày nào cũng phải đem Phật ngự trị nơi tâm nên không có ngày xấu cũng không có ngày tốt. Sở dĩ ngày đó cho là xấu là vì nghiệp trổ ra nhưng ngày tốt thì nghiệp vẫn trổ ra như thường. Vấn đề là khi nghiệp xấu trổ ra thì sẽ đối trị với nghiệp đó như thế nào? Mình có an nhiên với nó không? Mình có an nhiên với cái hạnh báo oán hay không? Có học được hạnh kham nhẫn hay không?
Tâm thứ ba phải chuyển hóa là tâm hoài nghi. Cái nghi này không phải là nghi thầy, nghi bạn đồng tu, nghi cái chùa, nghi pháp môn… cái hoài nghi lớn nhất là nghi vào khả năng giác ngộ của mình, nghi vào Phật tính, Pháp tính, Tăng tính, tự tính Tam bảo của mình. Mình nghi mình không có khả năng tạo phước điền cho mình, cho chúng sinh. Chuyển hóa được những hoài nghi, dứt trừ hoài nghi, không còn tà kiến, không còn chấp thân thì không cần ai xác chứng, mình tự biết chắc chắn đã đi vào dòng.

Trong lúc thực tập thiền, như khi ở nhà một mình, đóng cửa nẻo để ngồi thiền rồi chợt có bác đưa thư hay có người nhà đi làm về bấm chuông. Là người duy nhất mở được cửa nên phải ngưng việc ngồi thiền lại đứng lên mở cửa. Thực ra ngồi thiền cũng chỉ là động tác của việc thực tập chánh niệm, đứng lên, đi ra ngoài mở cửa cũng là một hành động thiền. Từ lúc đứng lên cho tới khi ra ngoài mở cửa, phải thực tập chánh niệm và nói chuyện với bác đưa thư cũng phải thực tập chánh niệm lời nói. Thiền không chỉ là việc ngồi đó im lặng và thở. Ngồi chỉ là phương tiện trong giờ công phu. Thiền là thực tập khắp mọi nơi, trong lúc đứng lên, ngồi xuống, bước đi có ý thức, chú tâm vào công việc đang làm.

Công việc khác như khi chăm sóc cho nội thì biết là đang chăm sóc cho nội nên khi ngồi thiền mà nội kêu đi rót nước hay làm việc gì đó mà thấy bực bội và không có chánh niệm về sân thì chưa thiền đúng. Nhiều khi nội tạo cơ hội cho thực tập thiền, đi rót nước cho nội cũng phải thiền. Biết đang rót nước, đưa nước cho nội biết đang đưa nước và ngắm nhìn nội uống. Khi rót nước đọc bài kệ châm nước là:

Hạt nước tinh khiết
Kiến thiết thân tâm
Hết nước lại châm
Yêu thương nguồn cội.

Đọc những bài kệ như vậy sẽ nhắc nhở mình thực tập chánh niệm. Thiền là 24/7, như cửa hàng tiện lợi mở cửa 24/7. Cần mua đồ dù là nửa đêm thì cửa hàng vẫn luôn có mặt đó cho người mua. Chánh niệm giống như cửa hàng tiện lợi, giúp chú tâm vào hành động đang làm, lời nói đang nói, suy nghĩ đang nghĩ. Chăm sóc cho nội là cơ hội thực tập chánh niệm. Vừa chăm sóc vừa than vãn sao mình thiền mà kêu làm cái này làm cái kia thì sân đã nổi lên và mình không có chánh niệm về sân thì sự thực tập của mình chưa đi đến đâu. Ngồi thiền nhưng không kẹt vào việc ngồi thiền. Có thể nói với nội rằng chút nữa mình ngồi thiền nửa tiếng hay một tiếng, giờ nội có cần làm gì thì con làm. Mình ký hợp đồng hay xi nhan với nội trước. Nếu trong thời gian ấy có chuyện khẩn cấp xảy ra mình vẫn đi làm bình thường, xong việc lại thực tập tiếp. Vấn đề là trong những hoàn cảnh khác nhau tâm mình ứng xử ra sao, nếu như bực mình thì phải niệm cho được. Giờ mình ngồi thiền mà thầy tới gõ lên đầu cái cốc mà không có bực mình thì giỏi.

8. Thực tập thu thúc sáu căn nhưng khi giận có đồng thời nhiều tâm hành khởi lên, bị ngợp trước những tâm hành đó.

Có người nói câu nào đó cho mình giận mà có hàng chục những tâm hành khác nhau nổi lên thì phải chú ý vào 6 tâm độc tham, sân, si, mạn, nghi, kiến. Lấy sáu tâm này làm gốc để niệm. Niệm tâm sân, biết là đang sân, biết sân phát khởi và sân lắng dịu. Đừng tham trong việc niệm tâm. Những tâm bất thiện khác thực ra không nằm ngoài sáu tâm độc. Ví dụ khi ghen tỵ với thành tích của ai đó thì cũng là tham, sân, si. Nếu niệm biết có tâm ganh tỵ thì tốt, còn nếu không có thể niệm: à, biết là đang si mê, đang sân, đang tham với thành tích của người khác.


Trong đầu hiện lên hình ảnh ái dục thì niệm: à biết là đang tham dục. Đừng để bị dục kéo đi, phải nhận ra cho được. Biết là đang lười biếng, tới giờ ngồi thiền mà đi coi phim, nghe nhạc, đọc tạp chí… đang tham hưởng thụ, đang si mê. Hãy an trú vào sáu tâm mình đang thực tập. Những tâm vi tế hơn sau này từ từ sẽ có cơ hội thực tập.