Thứ Sáu, 20 tháng 11, 2015

KINH TÂM HOANG VU


KINH TÂM HOANG VU
Giảng vào ngày 6/7/2014
Phiên tả: Tường Lam

Trong lúc ngồi thiền mà bị ngộp thở thì niệm là “Ngộp thở à”. Nhưng nếu niệm một hồi mà không hết thì nên ngừng thiền và xoa bóp lại cơ thể. Sự ngộp thở là do tứ đại không được điều hòa hoặc do ép hơi thở. Phóng tâm nhiều làm giảm sự theo dõi sự phồng xộp của bụng, và lúc đó mình cũng không điều tiết được hơi thở dẫn tới bị ngộp thở.

Nếu như bị phóng tâm liên tục và phóng tâm nhiều lần thì mình vẫn tiếp tục niệm. Khi đối tượng phóng tâm hết rồi, hoặc sự phóng tâm hết rồi mà sau đó vẫn phóng tâm nữa thì niệm tiếp là: “Phóng tâm à”. Còn phóng tâm thì còn phải niệm. Vấn đề là nhận diện ra được là mình đang phóng tâm, còn nếu không nhận diện được có nghĩa là bị thất niệm. Thất niệm là một tâm sở bất thiện.

Thích nơi đông vui thì niệm là: “Ham thích à”. Đôi khi cũng không nên tách mình ra khỏi đám đông. Nếu như sự đông vui lành mạnh thì không có vấn đề gì. Nếu sự đông vui không lành mạnh, như ngồi nói chuyện trên trời dưới đất, hoặc nói những chuyện có thể khiến mình phát khởi ái dục, hoặc tham muốn, bạo động, thì không nên đi vào những đám đông như vậy.

Tuy nhiên, phải giả dạng trong một số trường hợp, thực tập đi giữa thế gian mà không nhiễm pháp thế gian. Mình đang tu mà không ai biết mình đang tu. Mình đang ngồi thiền mà không ai biết mình đang ngồi thiền. Môi trường không được thuận lợi nên mình phải che giấu thân phận. Trước hết là để bảo toàn cho mình, thứ hai là không để người khác rơi vào tình trạng phạm giới.

Nghe người ta nói những chuyện tầm bậy thì niệm là: “Nghe à”. Nếu tâm chưa vững thì nên đi ra khỏi chỗ đó. Còn tâm vững thì mình cứ ngồi đó như thường. Mình không trốn chạy mà niệm là “Nghe à”, không kẹt vào câu chuyện người ta nói. Nhiều khi đó là một bài thực tập để xem mình có vững hay không. Còn mình vẫn ngồi cười bình thường nhưng không chạy theo các pháp thế gian đó thì mình vẫn có chánh niệm.

Ngồi thiền mà bị nhức đầu thì đem tâm tới chỗ bị nhức đầu và niệm là: “Nhức à”. Niệm một hồi thì sẽ bớt nhức, hoặc buông thư chỗ bị nhức ra thì chỗ đó sẽ bớt nhức. Ví dụ như thầy bị nhức mặt hoặc nhức đầu thì thầy buông thư chỗ bị nhức ra khoảng 15 phút hoặc đem tâm tới chỗ bị nhức và niệm là “Nhức à” thì một hồi sau, chỗ đó nóng lên và bớt nhức.

Nên nhớ rằng Pháp thí thắng mọi thí. Mình có cơ hội chia sẻ pháp với người khác thì đó là trường hợp pháp thí. Cố gắng sắp xếp thời giờ chuẩn bị bài chia sẻ với người khác để có thêm công đức. Chính công đức này làm thuận duyên cho mình tu tập thiền và giữ giới. Nếu từ chối hoặc vịn vào công việc bận rộn thì mình mất đi cơ hội làm phước. Phải nhìn ra chuyện này. Cho dù ấn tống kinh sách, dịch kinh điển nhưng bằng tâm lăng xăng, hoặc bằng các chướng ngại, hoặc là dao động bất an, thì phước bị giảm đi rất nhiều. Dành thời gian chuẩn bị bài để nói pháp cho các bạn đồng tu cùng tu tập. Cùng một chủ đề nhưng mỗi người có cái thấy khác nhau. Mình có cái thấy này, nhưng bạn kia thì chưa có cái thấy đó, nên mình chia sẻ để bổ sung vào sự thực tập của người kia. Chia sẻ cũng là sự thực tập, thực tập chia sẻ và thực tập Pháp thí.

Hãy đem thiền vào công việc. Khi đi biết mình đang đi, khi ngồi biết mình đang ngồi, khi nằm thì niệm là “Nằm à”, khi ăn cơm thì niệm là “Ăn cơm à”. Trong lúc ăn cơm, từng động tác múc cơm, đưa cơm vào miệng nhai đều phải có ý thức: “Múc cơm à”, “Đưa cơm vào miệng à”, “Nhai cơm à”, “Nuốt cơm à”. Niệm chi tiết như vậy sẽ giúp mình dần dần thực tập thói quen chánh niệm, niệm trong tất cả mọi trường hợp. Nhiều khi thầy gọi mình đi chung với thầy để xem mình có thực tập hay không, thông qua việc quan sát mình đi, đứng, dẫn xe, dắt xe, thả chim, thả cá hay mua cái này, mua cái kia. Mình đi lăng xăng, mình không có niệm, quàng chân này quàng chân kia, vấp té có nghĩa là ở nhà mình chưa có thực tập miên mật, chưa có dành thời giờ công phu thực tập. Trong lúc thực tập mình cũng không thực sự thực tập nữa.

Thường xuyên nhắc bản thân thực tập, không để buông trôi. Năng lượng tu tập đi xuống rất uổng cho khoảng thời gian mình thực tập trước đây. Cho dù bận rộn cách mấy thì việc thực tập lúc nào cũng ưu tiên hơn cả. Đừng bao giờ đổ thừa cho sự bận rộn. Mình đã học quản trị thời gian rồi. Chỉ có thực tập mới là con đường tối thượng, đáng để hướng tới.

Tình trạng ngủ nhiều là do nghiệp của tâm si. Ngủ nhiều mà không dứt ra được là tâm si rất nhiều. Nghe pháp mà cứ ngồi ngáp thì không phải là do ông thầy đó giảng dở, mà do tâm si trỗi dậy.

Thời Phật còn tại thế, Phật giảng rất hay đâu cần pha trò. Vấn đề là Phật hiểu căn cơ của người nghe nên chia sẻ đúng với nhu cầu của người đó để người đó có thể tiếp nhận và hành trì theo. Khi giảng cho đại chúng gồm nhiều người thì Đức Phật giảng những bài pháp phổ thông tùy theo căn cơ của nhóm người. Có những người vẫn ngủ khi nghe Phật giảng pháp. Khi nghe pháp mà mình cứ ngủ như vậy, hoặc ngáp tới ngáp lui thì biết ngay là tâm si đang trổ nghiệp, nghiệp của tâm si. Hôn trầm thụy miên là các pháp của tâm si.

Trước khi hành thiền không nên ăn quá no. Ví dụ như bình thường mình ăn 100% thì trước khi hành thiền mình chỉ ăn 70%. Người tu ăn để duy trì sinh mạng mà tu hành chứ không phải ăn để hưởng thụ, hay là không có tống thức ăn vào miệng, mình không biến dạ dày của mình thành nghĩa địa. Mình ăn vừa đủ để duy trì năng lượng tu tập. Ăn nhiều sẽ làm hôn trầm và thụy miên. Mình trở nên lười biếng muốn đi ngủ.

Tiếp theo, trước khi hành thiền, không nên làm việc nhiều và khi đã xác định giờ đó là giờ ngồi thiền thì không làm việc gì hết. Đã lên lịch trình cho giờ công phu thì phải tuân thủ theo. Ví dụ một ngày mình dành ra 8 tiếng đồng hồ để làm việc và 4 tiếng để tu thì trong 8 tiếng kia mình sẽ thực tập thiền làm việc, còn 4 tiếng kia thì mình thực tập thiền ngồi, thiền nằm, thiền đi, đọc kinh, tụng kinh, rải tâm từ, viết bài, đọc sách, nghe pháp thoại…

Như vậy là mình có 12 tiếng đồng hồ và vẫn còn 12 tiếng đồng hồ nữa để đi lại trên các phương tiện xe cộ, để ăn uống, vệ sinh cá nhân, giao tiếp, ngủ nghỉ. Người trong độ 18 tuổi trở lên thì chỉ cần ngủ trong khoảng từ 6-8 tiếng là đủ, nhưng đối với người tu thì chỉ cần ngủ 6 tiếng là đủ. Thời gian thực tập thiền là mình đã nghỉ ngơi rồi. Mình đã ngủ biết bao nhiêu kiếp, mình đã ngủ hằng hà sa số kiếp trước đây, và bây giờ mình đừng ngủ nữa.

Mình phải tập. Bình thường mình ngủ 12 tiếng thì trong tháng này mình phải tập ngủ 11 tiếng. Tháng tiếp theo giảm xuống còn 10 tiếng, tháng tiếp theo nữa giảm xuống còn 9 tiếng, và tháng tiếp theo nữa giảm xuống còn 8 tiếng và cứ như thế cho tới khi nào mình chỉ còn ngủ 6 tiếng mà thôi. Lên kế hoạch tập những điều đó, nếu không mình sẽ lặp đi lặp lại việc của những kiếp trước là ngủ triền miên. Kiếp này nếu tiếp tục ngủ triền miên như thế thì kiếp sau cũng sẽ ngủ triền miên thôi.

Tu là tập, là sửa, là hành trì. Không tập, không sửa hay không hành trì thì tới 30 tuổi, 40 tuổi hay 50 tuổi thì vẫn mãi là trẻ thơ. Đầu hai thứ tóc hay mấy thứ tóc thì vẫn mãi là trẻ thơ. Mình cứ tiếp tục ngây ngô qua các thời đại. Gương mặt phụ huynh nhưng tâm vẫn non nớt như một đứa trẻ.

Dưới đây là Kinh Tâm Hoang Vu.

Tôi được nghe như vầy, một thời Thế Tôn ở Savatthi tại Jetavana, vườn ông Anathapindika, người đã thuyết giảng cho các vị Tỳ kheo về tâm hoang vu. 
Vị Tỳ kheo nào chưa diệt trừ năm tâm hoang vu, chưa đoạn tận năm tâm triền phược, vị ấy chưa thể lớn mạnh, chưa thể trưởng thành, chưa thể hưng thịnh trong pháp luật này.

Tâm hoang vu như là tâm đi hoang, phóng dật, lăng xăng, nhảy từ chỗ này tới chỗ kia, như vượn chuyền cành, như con voi hoang, con ngựa hoang. Mình ôm đồm rất nhiều việc, đó là biểu hiện của bệnh lu bu, và không biết cách nào để giảm được bệnh lu bu.

Làm ở công ty này, mình rất lu bu và đi qua một chỗ khác mình cũng tiếp tục lu bu như vậy. Nếu như nghỉ chỗ này đi qua chỗ khác mà không biết sắp xếp thời gian thì mình vẫn tiếp tục lu bu. Lu bu từ năm này qua năm nọ trở thành một căn bệnh, bệnh bận rộn, bệnh thích lu bu. Mình làm rất nhiều việc, chứng tỏ với người khác là mình không có ngồi không, không có ở không.

Đức Phật dạy mình bớt việc, ít nghĩ suy. Không phải bớt việc là làm biếng mà là dùng thời gian đó thực tập giữ giới, hành giới, thực tập thiền tuệ, niệm danh pháp, niệm sắc pháp, nhận diện danh pháp, nhận diện sắc pháp hay thực tập tăng trưởng trí tuệ bằng cách nghe giảng, đọc sách, tiếp xúc với bậc thiện tri thức, rèn luyện trí tuệ ngày càng phát triển.

Tâm triền phược là những cái lôi kéo mình hoặc ngăn cản mình ra khỏi con đường tu tập. Nó cản trở sự tu tập của mình rất nhiều. Nếu như không nhận ra triền phược thì mình sẽ bị đối tượng ngăn cản đó kéo đi rồi mình đổ thừa tại cái này tại cái kia. Do gia đình không cho mình tu tập, do môi trường không cho phép mình tu tập, do công việc nên mình không còn thời giờ tu tập. Muôn ngàn lý do tuôn ra, do tôi bị bệnh nên không tu tập được, do ba mẹ ngăn cản nên tôi không tu tập được. Có thể liệt kê 101 hay 1001 những nguyên nhân ngăn cản mình tu tập. Tại sao nói 101 hay 1001 ? Vì còn nhiều nguyên nhân sau đó vẫn chưa thể liệt kê hết được. Cái này chưa nói là do kém phước duyên, do thiếu phước báu mà những triền phược đó xảy ra, bắt mình xa rời tu tập.

Vẫn còn tâm hoang vu, tâm triền phược thì mình vẫn chưa thể đi xa được trên con đường tu tập. Chưa đi xa được thì chưa lớn lên, chưa trưởng thành. Có thể tuổi đời, hay tuổi đạo ngày càng tăng lên nhưng vẫn chưa thành đạo vì vẫn chưa miên mật trong việc tu tập.

Tu là phải miên mật. Tu trong từng sát na, từng giây phút. Khi đói bụng thì ăn cơm, khi khát nước thì uống nước. Khi thiếu tình thương thì phải tập tình thương. Phải tập cho tình thương phát triển lên. Muốn cho tình thương phát triển thì phải tu. Muốn đứng vững trên đôi chân thì phải tu, không ai đứng dùm hết. Phật dạy nếu sống 100 năm mà vẫn chưa thấy pháp sinh diệt thì 100 năm đó vô ích, không bằng người ta chỉ mới sống một ngày mà thấy pháp sinh diệt.

Tương tự, vị Tỳ kheo nghi ngờ Pháp, nghi ngờ Tăng, nghi ngờ các học pháp, do dự, không quyết đoán, không có tịnh tín, thời tâm vị ấy không hướng về nỗ lực, không chuyên cần, không kiên trì, không tinh tấn, đây là ba tâm hoang vu tiếp theo chưa được diệt trừ. 

Như vậy tâm hoang vu thứ hai là nghi ngờ về Pháp. Pháp là con đường thực tập giải thoát, là kinh điển, là những lời dạy của Đức Phật, là con đường hành trì, là phương tiện giúp mình thực tập. Khi thực tập các bài Pháp thì mình sinh lòng nghi ngờ, không biết là hành trì phương pháp hành thiền, phương pháp niệm Phật hay phương pháp giữ giới có giúp ích gì không. Mình không dành thời gian để thực tập mà chỉ ngồi đó tự đặt câu hỏi và tự nghi ngờ.

Hoặc do việc hành trì không đúng pháp nên không có kết quả. Không có kết quả sinh ra nghi ngờ con đường đó. Ví dụ như bây giờ người ta không lo thực tập nhiều mà chạy theo việc tô tượng, xây chùa, ấn tống kinh điển, theo hình thức mà không theo nội dung, không theo sự chuyển hóa khổ đau, không theo việc tăng trưởng hạt giống thiện lành trong tâm, chạy theo sự khen ngợi, số lượng, tên tuổi, hình thức mà nội dung quan trọng lại bị bỏ rơi. Số lượng người tu rất đông, nhưng người thành tựu thì không bao nhiêu.

Không có nhiều tu sĩ đạt thành tựu thì cư sĩ và người nghe pháp sẽ nghi ngờ Pháp. Họ tự hỏi không biết pháp đó có thiệt hay không, pháp đó có phải do chính Đức Phật nói ra hay không?

Bây giờ người ta biến tướng thiền, làm mới thiền, thực tập thiền thì phải vui. Ví dụ thở vào tôi mỉm cười, thở ra tôi mỉm cười. Như thế, người tập sẽ bị kẹt vào những bài thiền hiện đại mang tính chất đối phó. Cái an cái lạc mà mình cho là đang nổi lên đó tuy biểu hiện ra ngoài nhưng mình không nhận diện được mà bị kẹt. Như vậy, tâm mình không đi lên được nữa mà chỉ đứng im một chỗ. 

Thực tập thiền mà muốn đi lên tầng tiếp theo thì phải buông bỏ cái tầng mình đang đứng. Muốn đi lên bậc thứ hai thì phải buông bỏ bậc thứ nhất. Muốn tâm xuất gia thì mình phải buông bỏ cái gia đi. Rời bỏ cái gia đó thì tâm mới xuất gia được. Tâm còn luyến ái vào chuyện gia đình thì vẫn chưa thể xuất gia, chưa thể đi xa.

Không chỉ luyến ái nam nữ, mình còn luyến ái gia đình và bạn bè. Mình thương bạn bè không phải bằng tâm từ mà bằng tâm luyến ái, thương thầy không phải bằng tâm từ mà bằng tâm luyến ái. Thương ba mẹ không phải bằng tâm từ mà bằng tâm luyến ái. Thương cái nhà không phải bằng tâm từ, mà bằng tâm luyến ái. Những cái đó mất đi hay rời xa mình thì mình sẽ đau khổ vô cùng. Mình chưa có đi xa được là vậy. Một lát nữa sau bài pháp thoại nếu có thì giờ thầy sẽ soạn tiếp bài Kinh Đoạn tận ái trong Kinh Trung bộ mà đức Phật giảng dạy. Kinh Đoạn tận ái thật ra là Kinh Mười hai nhân duyên được đức Phật giảng bằng ngôn từ khác. Có rất nhiều kinh mà Đức Phật nói đi nói lại với ngôn từ, ví dụ khác để nhiều đối tượng có thể nghe và hiểu được.

Nghi ngờ tăng là tâm hoang vu thứ ba. Mình không biết rằng vị đó có tu thiệt không, vị đó có mang phước điền cho chúng sinh không, lời dạy của vị đó có phải là thực chứng không, vị đó là phàm tăng hay thánh tăng… Có những vị thánh tăng hướng thượng và phàm tăng hướng hạ. Nếu như các vị phàm tăng hướng hạ mà cứ hướng hạ mãi thì sẽ dẫn tới mạt pháp. Lần trước thầy đã chia sẻ mạt pháp là từ trong nội bộ tăng chúng mà ra. Đất nước tàn rụi là do nội bộ của chính phủ. Một quốc gia mà chính phủ tham nhũng quá mức, ăn chơi quá mức, làm chuyện tầm bậy quá mức, áp đặt người dân quá mức thì biết ngay là trước sau gì nội bộ đất nước đó cũng tàn lụi. Tàn lụi từ bên trong đi ra chứ không phải từ bên ngoài đi vào. Giống như con mối đục từ trong ra. Nó tự động sinh ra trong khúc gỗ đó, ăn gỗ từ trong ra ngoài. Có những khúc cây bên ngoài rất nguyên vẹn nhưng nếu không để ý mà ngồi lên thì sẽ bị ngã bởi vì khúc cây đó đã bị mục, mỏng ra, bị rỗng ở bên trong hết. Ngồi lên thì té thôi.

Có người giảng pháp rất hay nhưng bên trong mục nát hết, không còn gì để cứu vãn. Khi nãy thầy có nghe sư cô Tâm Tâm giảng: Một vị tăng mà sát sinh là đi thẳng xuống địa ngục vì đó là trọng giới. Thọ giới nào thì phải giữ cho được giới đó. Bây giờ mình đã thọ sáu giới, có thể thêm một năm nữa sẽ thọ thêm một giới nữa thì phải giữ tất cả giới đã thọ. Thọ giới không được uống chất say thì phải giữ giới là không uống các chất say. Mình không đổ thừa tại người này người kia ép mình. Mình phạm giới là tại tâm mình không chuyên chứ không phải là do người khác ép mình. Không lẽ người ta ép mình giết người thì mình cũng giết người sao?

Ngày xưa đức Phật thực tập kham nhẫn ở tiền kiếp bị vua Kalinga chặt đứt cả thân thể mà Đức Phật vẫn không giận. Kham nhẫn ở tâm chứ không phải ở thân. Kham nhẫn thì dù sắc thực vật, rượu bia kề thân, mình cũng không uống. Kham nhẫn với sắc đẹp thì dù da thịt thơm tho kề tận mắt, tận răng, mình cũng không hưởng. Thực tập kham nhẫn tới tận cốt tủy là vậy, kham nhẫn tới tận cùng của thân tâm.

Cho dù ai mời, ai xúi, ai khuyên cái gì để mình đi vào con đường phạm giới thì mình vẫn nhất quyết nói không vì mình đã nguyện thực tập giữ giới, không xá gì thân mạng. Thà người ta bắn mình chết chứ mình nhất quyết không bắn lại. Thà người ta chửi mình tới tận cùng xã hội, mình nhất quyết không chửi lại. Đó mới gọi là người tu. Kham nhẫn là hành vi cao thượng của người tu. Kham nhẫn là biểu hiện dũng mãnh, biểu hiện của đại trượng phu mà bậc chân tu có được. Do đó, nghi ngờ tăng là tâm hoang vu thứ ba cần được diệt trừ.

Tâm hoang vu thứ tư là nghi ngờ các học pháp, nghi ngờ các bài pháp, nghi ngờ các bài kinh, nghi ngờ các lời giảng của Phật. Ví dụ Đức Phật nói: Đây là vô thường, đây là vô ngã, đây là vô tướng, đây là vô tác, đây là không, đây là tự tính không, đây là tự tính Niết Bàn. Nhưng mình nghi ngờ vì tà kiến trong mình trỗi dậy. Do tà kiến mà mình sinh ra nghi ngờ. Hoặc do tâm lý đám đông mà mình sinh ra nghi ngờ. Mình thấy nhiều người chạy theo vị thầy đó nghe pháp nên mình nghĩ rằng thầy đó giảng đúng, mình kẹt vào tâm lý đám đông.

Một số trường hợp phải hiểu là nhiều người giảng rất hay, nghe rất xuôi tai, thấm thía dữ lắm nhưng thực tế không phải vậy. Tất cả đều đang đánh lừa hết. Người ta đóng kịch rất giỏi. Ví dụ như Bồ tát Di Lạc trong tiền kiếp thị hiện ra một người đi đứng không nhẹ nhàng, đi ầm ầm, bụng bự, miệng cười sang sảng. Một số vị đi nhẹ nhàng, khoan thai nhưng chưa hẳn là vậy. Vấn đề là mình đi bằng cái tâm gì? Cái tâm gì khiến mình đi như vậy? Mình đi nhanh nhưng có chánh niệm, có giới, có định, có tuệ thì sự đi nhanh đó hay hơn là đi chậm trong thất niệm, không có giới, không có định, không có tuệ gì cả. Đi chậm nhưng đi bằng sự trình diễn, muốn được mọi người ngắm nhìn dáng đi đẹp, dễ thương thì mình đang đi bằng tâm ngã mạn, không có ích lợi gì. Cần nhận diện mình làm việc bằng tâm gì, tâm bất thiện hay tâm thiện? Mình nghe pháp bằng tâm gì ? Không phải ai vào chùa là cũng có phước. Vào chùa để học hỏi chánh pháp, để thực tập, hay vào chùa để chứng tỏ với mọi người là mình đang tu tập, phải giành chỗ tốt để tu tập. Thế thì có phải đi vô chùa để tu tập không hay đi vô chùa bằng tâm tham, tâm sân, tâm si, tâm ngã mạn ? Vào chùa bằng tâm bất thiện như thế là khiến cho mình tạo nghiệp chứ không phải tạo phước, tạo nghiệp bất thiện.

Tiếp theo, vị Tỳ Kheo phẫn nộ đối với các đồng phạm hạnh, không có hoan hỷ, tâm tư chống đối, cứng rắn, thời tâm của vị ấy không hướng về nỗ lực, không chuyên cần, không kiên trì, không tinh tấn. Đây là tâm hoang vu thứ năm chưa được diệt trừ.

Đối với bạn đồng tu của mình thì mình nổi sân, không nói lời ái ngữ. Mình chỉ trích vị này vị kia. Bằng lời chỉ trích, vô tình gây ra phá hòa hợp tăng, rơi vào Năm nghịch là năm tội cực ác có thể khiến mình đọa xuống địa ngục Vô gián, là nghiệp cực ác. Tăng thân làm sai thì có tăng thân dạy dỗ, khuyên răn, soi sáng, đừng phá hòa hợp tăng. Đó là chuyện không nên và bị cấm làm vì mình không biết nội tình bên trong như thế nào. Mình chỉ là một người đứng ngoài mà mình nói ra nói vào làm cho các vị đồng tu nghi ngờ lẫn nhau. Từ nghi ngờ mà bùng nổ thành cuộc chiến làm họ không tu nữa thì tội của mình lớn biết chừng nào. Thấy người tu tập thì mình phải tán thán sự tu tập đó, học theo sự tu tập đó. Nếu người ta làm sai thì mình phải nhìn vô cái sai đó mà học, biết cái sai đó mà tránh. Không làm chuyện có thể khiến mình đọa lạc, xa rời việc tu tập.

Người thông minh tu tập một cách thông minh và trí tuệ. Không hoan hỷ với sự tu tập, với thành tựu của người khác thì không có phước. Giống như lần trước thầy chia sẻ một người trong túi chỉ có 100,000 đồng, người này đem hết 100,000 đó ra cúng dường. Còn người kia trong túi chỉ có 5,000 đồng, cũng đem 5,000 đó ra cúng dường. Cả hai đều cho hết tài sản của mình nhưng tâm của họ phát khởi hạnh phúc như nhau, cho nên phước của hai người này bằng nhau. Người thứ ba trong túi không có đồng nào nhưng thấy người đó làm việc thiện như vậy sanh tâm vui mừng, tán thán. Cả ba người đều có phước bằng nhau.

Cũng như thế, khi đi vào một thiền thân, thấy người ta tu tập, cho dù mình không được giỏi bằng nhưng mình khởi tâm tùy hỷ, tán thán sự tu tập của thiền thân đó thì mình cũng tạo phước rồi.

Tâm tư chống đối cứng rắn nghĩa là không nghe lời bậc đạo sư, phê bình thầy dạy đúng sai, nói ý mình mới đúng, chống đối lại lời dạy của người khác. Mình nghe là chỉ để nghe thôi, nếu trong sự nghe đó, mình thấy hợp với căn cơ của mình, hợp với hoàn cảnh của mình thì mình lấy ra thực tập. Còn nếu không hợp thì để dành tùy hoàn cảnh trong tương lai thích hợp thực tập sau cũng được. Ngày xưa thầy nói với một học trò khi mình thiền Minh sát tuệ tới một bài nào đó mình sẽ cảm thấy muốn ói. Nếu như không kềm được thì có thể ói ra luôn, hoặc bị những bệnh cũ tái phát thì bạn ấy trề môi nói làm gì có chuyện đó. Mình không có thực tập nên mình không biết. Có những người đang thực tập tới bài 11, 12 rồi bỏ về, không muốn thực tập nữa, ngưng ở chỗ đó luôn. Bởi vì họ thiếu phước. Phước thực tập tới bài 12 hết rồi nên chỉ đi được tới đó thôi, muốn thực tập thêm thì phải tạo phước nữa.

Có người chỉ chứng được sơ thiền mà không chứng được nhị thiền, bởi vì phước của họ không đủ để chứng được nhị thiền. Hoặc mình thực tập hoài mà không đi lên được Tu Đà Hoàn là bởi vì mình thiếu phước. Hoặc từ Tu Đà Hoàn mà không lên được Tư Đà Hàm là vì không đủ phước. Mình cứ tưởng là mình có phước nhưng thực tế là mình đang thiếu phước.

Mẹ thầy dạy là đem toàn bộ tài sản trên thế gian này, trên vũ trụ này ra bố thí cũng không bằng phước một người chứng Tu Đà Hoàn. Còn phước của người chứng Tư Đà Hàm thì gấp hằng hà sa số lần như vậy. Muốn thành tựu hơn nữa trong tu thiền và tu tập thì lúc nào cũng phải làm phước. Trong tâm có một chút nghi ngờ nào đó thì hãy nhận diện và niệm: “Nghi ngờ à”, cho tới khi không còn một chút nghi ngờ nào nữa thì mình mới đi xa hơn. Bằng không thì tự mình sẽ xa lánh các bậc thiện tri thức, xa lánh đức Phật, xa rời Pháp và Tăng, không phải ai xúi giục mình. Không ai ép được mình uống bia nếu mình không muốn. Thực tập tốt thì ngay cả trong ý niệm cũng không khởi lên ham muốn một giọt.

Đối với tâm tà dâm, có những người không hành dâm nhưng ý niệm lại có tà dâm. Ví dụ mình đọc bài thơ của TTKH :

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạc lõng với chồng tôi
Mà từng thu chết từng thu chết,
Vẫn giữ trong tim một bóng người.

Người đời có thể nghĩ đoạn thơ này lãng mạn, nhưng đối với người tu thì đây là bài thơ của tà dâm. Có chồng nhưng không yêu thương chồng nên thấy cuộc sống rất nhạt nhẽo. Mỗi năm trôi qua như đang chết dần chết mòn. Hình bóng người tình xa xưa vẫn còn trong tâm. Đây là ngoại tình tư tưởng, là suy nghĩ tà dâm. Người đời cho đoạn thơ đề cập việc hồi tưởng một cuộc tình đã qua.

Sống chung trong tăng thân hoặc thiền thân, hoặc trong nhóm bạn tu thì phải học và nghe theo những vị tiền thân đi trước, những người nhìn ra lỗi lầm của mình, khuyên răn mình không lầm đường lạc lối. Nếu hành xử cứng rắn thì người thiệt thòi là mình, không phải người kia. Người ta thương nên mới khuyên răn dạy dỗ, còn không thương thì người ta sẽ bỏ mặc luôn cho mình muốn làm gì thì làm. Mình phải cám ơn người nhìn thấy và nói cho mình biết khuyết điểm để mình tu sửa lại. Người lúc nào cũng khen thì đôi khi lại làm hại mình.

Trong cuộc đời có nhiều cái khổ. Do vậy, mình quyết tâm tu tập, trân quý hạnh phúc đang có. Một thầy nghe đệ tử than bệnh thì nói: “Thầy thấy con bệnh mà mừng cho con”. Vì nghĩ là sẽ được thầy chăm sóc và thông cảm nên khi nghe thế vị đệ tử chưng hửng, ngay trong thời khắc đó phát tâm giận thầy: “Mình bệnh như vậy, bấy lâu nay mình chấp tác, làm Phật sự rất miên mật mà không thấy sư phụ khen gì, bữa nay mới bị bệnh tới than một tí thôi mà sư phụ nói vậy đó, như hất một gáo nước lạnh vào mặt. Thật là giận.” Sau đó chạy về phòng khóc thút thít mà không biết rằng ý của sư phụ là hồi nào giờ mình ỷ lại vào sức khỏe, cho nên bây giờ mình bệnh sư phụ mừng là mình tỉnh ngộ, không còn ỷ lại, biết sử dụng thân này đúng mực, không để thân này đi vào con đường lạc lối, làm việc quá mức, hưởng dục quá mức...

Thế nào là năm tâm triền phược chưa được đoạn tận? Khi nãy thầy đã nói là năm tâm hoang vu. Tâm hoang vu thứ nhất là nghi ngờ bậc đạo sư, tâm hoang vu thứ hai là nghi ngờ pháp, thứ ba là nghi ngờ tăng, thứ tư là nghi ngờ các học pháp, thứ năm là các bạn đồng tu tới chia sẻ học tập cho mình thì lại chống đối, không hoan hỷ mà lại phẫn nộ.

Thế thì năm tâm triền phược chưa được đoạn tận là gì? Vị Tỳ kheo đối với các dục mà tham ái, cầu mong, luyến ái, khao khát nhiệt tình, ham thích. Thời tâm vị ấy không hướng về nỗ lực, không kiên trì, không tinh tấn. Đây là tâm triền phược thứ nhất chưa được đoạn trừ.

Vậy thì mình có dính tâm gì trong các tâm đó không? Nếu đã vướng phải tâm phiền trược thì phải làm gì để chấm dứt nó? Tâm triền phược thứ nhất là do tham ái. Vì tham ái nên cầu mong, cầu mong nên luyến ái, luyến ái nên khao khát, và do khao khát nên nhiệt tình trong hưởng thụ. Khi nhiệt tình trong hưởng thụ thì gia tăng sự ham thích. Gia tăng sự ham thích thì tất cả thành triền phược hoặc triền cái ngăn cản con đường tu tập ngày đêm không dứt.

Dục rất nhiều nhưng có năm dục chính là: tài, sắc, danh, thực, thùy. Bên cạnh đó còn có sáu dục của sáu căn: sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục, xúc dục và pháp dục. Dục nhiều vô số. Phật thì ít mà ma thì nhiều, người tu thì ít, người bỏ tu thì nhiều, người cõi trên ít – người cõi dưới nhiều, Niết Bàn ít – địa ngục nhiều, hành tinh như trái đất thì ít mà nơi không có sự sống trong vũ trụ thì nhiều.

Vì vậy, trong thời mạt pháp, nếu ai biết sử dụng công phu tu tập thì sẽ rất nhanh được thành tựu. Trong kinh Phật dạy, trong thời mạt pháp không ai tu thiền nữa, vì đôi lúc chỉ cần niệm một câu niệm Phật cũng có đủ phước duyên tiếp tục hành trì chánh pháp ở hiện tại và tương lai. Tâm triền phược đầu tiên được đề cập là dục, tham ái dục, cầu mong dục, luyến ái dục. Muốn buông bỏ tâm triền phược thì phải cắt được luyến ái dục, tham ái dục, cầu mong dục.

Buông bỏ tâm tham ăn, tham uống, tham mặc, tham ở, tham khen, tham xúc chạm, tham nhìn sắc đẹp, tham suy nghĩ tới dục lạc, tham đi nhậu, tham đọc sách báo tạp chí, tham nghe nhạc... Phải bỏ tất cả tham đó đi.

Tương tự, vị Tỳ kheo đối với tự thân, đối với các sắc pháp mà tham ái, cầu mong, luyến ái, khao khát, nhiệt tình, ham thích, thời tâm của vị ấy không hướng về nỗ lực, không chuyên cần, không kiên trì, không tinh tấn, đây là hai tâm triền phược tiếp theo chưa được đoạn tận.

Thế thì tham ái đối với tự thân là tâm triền phược thứ hai và tham ái đối với sắc pháp là tâm triền phược thứ ba. Ví dụ, mình rất ái thân xác, thân thể đẹp, gương mặt đẹp. Mình trau chuốt, cung phụng cho thân thể tất cả dục lạc trên thế gian. Đó là tâm triền phược. Ở trong chùa ăn cực quá, về nhà mình cố gắng kiếm món ngon ưa thích để ăn. Hoặc mình ở trong trại quân đội ăn một món hoài nên bây giờ được đi ra ngoài, mình tìm kiếm những món lạ, những món mà mình thèm hồi nào tới giờ để cung phụng cho vị của mình.Thật ra ăn chỉ là ăn vị thôi. Đụng tới gạo lứt muối mè mình ăn không nổi, chạy xa trăm cây số liền. Mà mình đâu biết là mình ăn vị thôi chứ đâu phải món đó đâu. Còn kẹt vào tướng thì nghĩ tôi ăn món tên này tên kia, còn không kẹt vào tướng thì biết là tôi chỉ ăn vị thôi.

Thực tập chánh niệm trong lúc ăn. Thấy cay thì niệm là: “Cay à”. Thấy mặn thì niệm là “Mặn à”. Thấy ngọt thì niệm là “Ngọt à”. Chỉ niệm vị trong lúc ăn thôi. Ăn chỉ là ăn vị, không phải ăn món này món kia.

Mình kẹt vào sắc pháp của mình đã đành mà mình còn kẹt vào sắc pháp của người nữ, người nam, hay ba mẹ, cái nhà, chiếc xe. Cái nhà cũng là một sắc pháp, khu vườn, miếng đất, cái chùa, cuốn sách… là những sắc pháp. Có những người ham thích món đồ nào đó như tem, tiền cổ. Người ta cho đó là thú vui. Đối với thế gian đó là thú vui lành mạnh, nhưng đối với người tu thì có tâm tham và tâm si. Tham sắc pháp và mê mẩn hình ảnh con tem. Ham thích tem cổ, ham thích tiền cổ và thuyết giảng thao thao bất tuyệt về đồ cổ. Trong nhà mình có những chiếc bình cổ rất lớn, trưng đầy nhà. Vô nhà toàn là đồ vật, không có chỗ cho người ở. Một bài báo viết về chàng ca sĩ chụp hình ngôi nhà được đăng lên mạng. Nhìn ngôi nhà chỉ thấy toàn đồ cổ, ghế cổ, bàn cổ, tranh cổ treo đầy nhà mà có một mình anh đó ngồi rất cô đơn. Một vị khán giả sau khi đọc đã cho ý kiến là nhà này để đồ vật ở chứ không phải người ở. Kẹt vào sắc pháp của ngôi nhà là một triền phược.

Tiếp theo, vị Tỳ kheo ăn cho đến thỏa thê, cho đến bụng chứa đầy, sống thiên nặng về khoái lạc về sàng tọa, khoái lạc về ngủ nghỉ, khoái lạc về thụy miên, thời tâm của vị ấy không hướng về nỗ lực, không chuyên cần, không kiên trì, không tinh tấn, đây là tâm triền phược thứ tư chưa được đoạn tận. 

Khi ăn thì người đời ăn cho tới khi nào ăn không được nữa thì thôi. Còn người tu thì ăn vừa đủ, ăn gần no là dừng lại, cho nên ăn 70% hoặc 80%, không ăn nít bụng vì ăn mà thỏa thê là ăn bằng tâm tham. Ăn chay mà tìm những món lạ, mặc dù đó là món chay thì cũng là tâm tham. Ví dụ món bún mắm chay, bún riêu chay, thức ăn chay giả mặn để nhớ nhung món mặn. Hoặc làm những món chay mà có những đồ giả mặn như lẩu chay có ốc chay, chả chay, thịt quay chay... Tâm tham vi tế trong đó: Tham ăn. Đi tu là đi sửa, trước đây tham ăn thì bây giờ đừng tham ăn nữa.

Hoặc là sống thiên nặng khoái lạc về sàng tọa. Ví dụ mình ngủ trên một cái giường rất rộng, rất cao, có những nệm gối êm dịu. Hoặc ngồi thiền thì phải có gối mới ngồi được, phải có bãi cỏ mới ngồi được, phải có tọa cụ, bồ đoàn mới ngồi được, còn nếu không có thì không ngồi được. Sống thiên về khoái lạc, sàng tọa không phải là hạnh tri túc của người tu.

Thời tâm của vị ấy không hướng về nỗ lực, không kiên trì. Do ăn no nên buồn ngủ, là thụy miên. Người tu phải buông bỏ tình trạng này. Nếu không sẽ khó đi lên được. Nếu chùa nào ăn uống tối ngày, sáng, trưa, chiều, tối, làm các món ngon cung phụng cho việc ăn thì nên đi. Mình là người tu, vô chùa để tu, không phải để ăn.

Để thực tập được thành tựu, có đủ điều kiện thực tập thì phải xem lại việc ăn uống, tiện nghi, ngủ nghỉ, chỗ ở của mình. Nếu chỗ ở quá tiện nghi đầy đủ thì tâm sẽ có sự tự hào, pháp của ngã mạn trong đó. Ngã mạn về cái chùa, cái nhà… Chùa tôi là to nhất nước, tượng của tôi xây là lớn nhất Đông Nam Á. Những cái nhất đó khiến người ta tự hào mà tự hào là pháp của ngã mạn.

Bài Kinh Tâm Hoang Vu hôm nay giảng tới đoạn số 7, mình ghi nhớ để hôm sau nhắc thầy giảng tiếp.

Con xin nguyện hồi hướng công đức, tâm từ, phước báu và tình thương đến cho ba mẹ, ông bà, tổ tiên và chúng sinh ở hiện tại và mười phương. Cầu nguyện cho hòa bình ở Viêt Nam, biển Đông, Ukraine, Iraq… Cầu cho chúng sinh mười phương sống trong an lạc, thái bình, không có oan trái lẫn nhau, không có khổ thân, khổ tâm, thân tâm thường an lạc, được hưởng năm điều an vui và đắc đạo quả Niết Bàn. Tất cả đều được hưởng đồng đều nhau cả thảy.

Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.


DIỆT TRỪ PHIỀN GIẬN


DIỆT TRỪ PHIỀN GIẬN
Giảng vào ngày 30/3/2014
Phiên tả: Tường Lam

Đây là những điều tôi đã được nghe, hồi Bụt còn cư trú trong tu viện Cấp Cô Độc, rừng Thắng Lâm, tại thành Xá Vệ.

Hôm ấy, tôn giả Xá Lợi Phất nói với các vị khất sĩ: "Này các bạn đồng tu, hôm nay tôi muốn chia sẻ với các vị về năm phương pháp diệt trừ phiền giận. Xin các bạn lắng nghe và chiêm nghiệm”. Các vị khất sĩ vâng lời và lắng nghe. Tôn giả Xá Lợi Phất nói: Năm phương pháp diệt trừ phiền giận ấy là những phương pháp nào?
Đây là phương pháp thứ nhất, này các bạn:
Nếu có một ai đó mà hành động không dễ thương nhưng lời nói lại dễ thương, thì nếu là kẻ trí mà mình lại sinh tâm phiền giận người đó thì mình phải nên biết cách quán chiếu để trừ bỏ cái phiền giận ấy đi.
Theo lời dạy này thì hành động không dễ thương nhưng lời nói lại dễ thương có nghĩa là người này vẫn còn một chút ít sự dễ thương từ lời nói. Thế thì, mình quán chiếu ở đâu? Quán chiếu ở lời nói để nhìn thấy được sự dễ thương của người đó.
Này các bạn tu, ví dụ có một vị khất sĩ tu theo hạnh A Lan Nhã, ưa mặc y phấn tảo, một hôm đi qua một đống rác bẩn có phân, nước tiểu, nước mủ và các thức dơ bẩn khác, trông thấy một tấm vải còn lành lặn. Vị ấy dùng tay trái cầm miếng vải lên và lấy tay phải căng nó ra. Thấy miếng vải chưa bị rách thủng mà cũng không bị phân, nước tiểu, nước mủ và các chất dơ bẩn khác dính vào, vị ấy liền xếp miếng vải lại, cất lấy, đem về nhà để giặt sạch và may chung với các tấm vải khác làm y phấn tảo. Cũng như thế, này các bạn tu, khi có một người mà hành động không dễ thương nhưng lời nói còn dễ thương thì ta hãy đừng để tâm nghĩ tới hành động của người ấy mà chỉ nên chú ý tới lời nói dễ thương của người ấy, để có thể dứt trừ sự phiền giận của mình. Người có trí phải nên thực tập như vậy.
Đối với phương pháp thứ nhất, người đó có hành động không được dễ thương. Ví dụ như người đó có những hành động phạm giới, hành động làm cho mình giận, tuy nhiên người đó biết nói lời ái ngữ, nói những lời ban tặng niềm vui cho người khác thì mình có thể quán chiếu và chỉ nghĩ đến những lời dễ thương của người đó thôi. Mình làm cho những lời dễ thương đó tăng trưởng lên, át đi những hành động không dễ thương của người đó. Mình có thể chấp nhận, yêu thương người đó trở lại nhờ vào những lời nói dễ thương ấy. Tại sao có những người mẹ, con của mình rất hư hỏng nhưng vẫn cứ thương? Những người mẹ biết con mình không nên người, đi theo băng đảng trộm cướp nhưng vẫn cứ thương bởi vì đó là con của mình. Cho dù con mình ngoan hay không ngoan cũng vẫn là con của mình. Mình hãy học hạnh của mẹ như vậy. Mình đọc Kinh Từ bi là: nguyện tình thương cả thảy chúng sinh như lòng mẹ bao la cần mẫn, trăm cay ngàn đắng vẫn vui cười, dù cho sinh mạng mất tất cả, tình thương vẫn bao la thiên hạ, từ bi thênh thang như trời xanh.
Có người thấy thầy cứ đi dạy, có bao nhiêu tiền đi ấn tống kinh sách hết, không có bán mà lại tặng cho người ta hết trơn hoặc lại bán rất rẻ, thì mới hỏi thầy tại sao làm chuyện ngu si như vậy, tại sao lại bỏ công sức ra đi dạy khan cổ họng mà không hưởng thụ từ tiền lương mình kiếm được. Thầy ăn chay ốm nhom, ốm nhách mà thỉnh thoảng cũng tài lanh đi hiến máu. Có người ký giấy hiến xác và giác mạc sau khi qua đời nên tất cả tiền bạc, nhà cửa, sách vở kia chỉ là vật ngoài thân.
Mình biết thọ mạng này có sự tiếp nối. Sau khi qua đời mình sẽ được tiếp nối bằng một kiếp sống tiếp theo. Mình biết rằng mình vẫn có sự tiếp nối ở một kiếp tiếp theo cho nên kiếp này mình phải ăn ở đàng hoàng để kiếp sau mình được tiếp nối một cách đàng hoàng. 
“Cũng như thế, này các bạn tu, khi có một người mà hành động không dễ thương nhưng lời nói còn dễ thương thì ta hãy đừng để tâm nghĩ tới hành động của người ấy mà chỉ nên chú ý tới lời nói dễ thương của người ấy, để có thể dứt trừ sự phiền giận của mình.”  Khi nhìn một người mình cho là người mình đang giận thì mình hay nghĩ xấu về người đó. Biết bao nhiêu cái xấu nó trào ra. Giống như cặp vợ chồng khi gây lộn biết bao nhiêu cái xấu lôi ra kể. Còn trước đây khi mà thương nhau thì bao nhiêu cái tốt đẹp lôi ra kể. Người ta nói thương ai thương cả đường đi lối về, còn ghét là ghét cả tông ti họ hàng.
Có những lỗi không đáng nhưng bởi vì mình đang giận cho nên mình làm cho lỗi to ra và những ai chơi chung với người đó mình cũng giận luôn. Hoặc là bà con dòng họ của người đó mặc dù có những người rất tốt nhưng mình cũng giận luôn. Bởi vì tâm giận đã chiếm hết và sai sử mình mà mình không làm chủ được. Người ta nói là no mất ngon, giận mất khôn. Cho nên mình muốn khôn ngoan là mình không có giận. Người khôn ngoan là người không có giận. Mình phải đặt ra giới hạn đến lúc nào đó thì hết giận. Người tu không để giận qua đêm. Giận ba ngày vẫn còn dở. Khi mình đã thực tập rồi thì không để cơn giận qua đêm. Nhiều khi người làm mình giận rất là thích thú khi thấy mình giận. Ai mà chọc mình giận, thấy mình giận thì họ thích lắm tại vì mục đích của họ là làm cho mình giận. Mình giận có nghĩa là mình đã sập cái bẫy bủa vây ra rồi. Mình không giận có nghĩa là mình không bị sập bẫy nhưng cái bẫy này không phải để đối trị với người kia mà để đối trị với cơn giận trong mình. Lúc nào mình cũng phải chăm sóc cơn giận, giận biết đang giận, không giận biết đang không giận.
Đây là phương pháp thứ hai, này các bạn:


Nếu có một ai đó lời nói không dễ thương nhưng hành động dễ thương. Thì nếu là kẻ trí mà mình sinh tâm phiền giận người đó mình phải biết cách quán chiếu để trừ bỏ phiền giận đó đi.


Đối với phương pháp thứ hai này là một người ăn nói không dễ thương mà hành động dễ thương. Có những người khẩu xà nhưng tâm Phật, có những người nói năng lỗ mãng không có hoa mỹ, ngôn từ bình dân nhưng tâm dễ thương. Có người ăn nói rất ngọt, như rót mật vào tai, như ru ngủ nhưng tâm rất dễ sợ. Tâm muốn làm những chuyện tầm bậy, âm thầm làm những chuyện tầm bậy mình không biết được.

Ngày xưa khi đức Phật đắc thần thông, đức Phật đọc được suy nghĩ của người khác, biết người nào đang suy nghĩ cái gì, đang suy nghĩ thiện hay đang suy nghĩ không thiện. Đừng có kẹt vào lời nói của người khác mà hãy nhìn vào hành động dễ thương của họ. Có người ra ngoài chợ buôn cá, bán thịt nói năng lỗ mãng lắm nhưng về nhà lại chăm sóc ba mẹ, ông bà rất chu đáo. Họ có những hành động dễ thương. Có người làm từ thiện nhưng muốn được vinh danh là tôi đang làm từ thiện đấy mọi người. Nhiều lúc mình lại cứ nhìn vào cái miệng của họ mà không nhìn vào hành động. Làm từ thiện là hay lắm, cho nên khi nhìn vào hành động mà không kẹt vào lời nói thì sẽ thấy tính dễ thương của người đó.

Này các bạn tu ví dụ như cách thôn xóm không xa có một hồ nước sâu nhưng mặt nước lại bị rêu cỏ che lấp, lúc bấy giờ có một người đang đến gần hồ, tự thân đang bị sự đói khát, nóng bức hành hạ, người đó cởi áo để trên bờ hồ. Nhảy xuống, dùng hai cánh tay khoát rêu cỏ ra, khoan khoái mặc tình tắm rửa và uống nước mát dưới hồ.

Như vậy ở dưới hồ nước này là dòng nước có thể uống được. Nhưng mà phía trên bị rêu cỏ che lấp thôi. Nếu mình muốn uống nước thì mình phải vạt rêu cỏ qua một bên. Và mình lấy tay chụm lại, hớt nước trong ở trên uống. Cũng vậy người có lời nói không dễ thương nhưng hành động của họ lại dễ thương. Cho nên khi nhìn vào một người hãy nhìn vào sự dễ thương của họ, để diệt trừ những phiền giận mà mình cho là không dễ thương ở người đó.

Tại sao sếp cứ thúc ép mình hoàn thành các chỉ tiêu? Bởi vì sếp bị sếp cấp trên hơn nữa thúc ép. Sếp phải thúc ép nhân viên hoàn thành chỉ tiêu, bằng không sếp sẽ bị mất việc. Nếu nhân viên không hoàn thành thì nhân viên sẽ bị mất việc. Người học trò thực tập không thành tựu là ông thầy dở. Cho nên thầy lúc nào cũng khuyên tấn người học trò thực tập. Sự thành công của người thầy là nhờ vào sự thành công của học trò. Các ông thầy có thành công hay không là nhờ vào các học trò có thành công hay không. Mà người học trò không thành công là ông thầy không thành công tí nào. Người sếp có thành công hay không là do người nhân viên. Thầy có một người học trò ở Nha Trang lần trước đi vô thăm thầy thì thầy dạy cho anh đó: “Nếu bạn muốn thành công thì hãy giúp những người xung quanh bạn thành công”. Và anh đó đã làm câu trạng thái trên Skype, cho nên những người xung quanh mình mà không thành công thì mình thất bại.

Cũng như thế, này các bạn tu, khi có một người lời nói không dễ thương mà hành động dễ thương thì ta đừng để tâm nghĩ tới lời nói của người ấy mà chỉ nên chú ý đến hành động dễ thương của người đó thôi, để có thể giúp trừ sự phiền giận của mình. Người có trí phải nên thực tập như vậy.

Một người dù có những tính cách xấu xa cách mấy, cư xử có xấu xa cách mấy vẫn còn có vài điều dễ thương. Dễ thương trước hết là người đó vẫn đang là một con người. Được sinh ra làm người là phước đức rất lớn. Nếu như không lo tu thì mình sẽ mất thân người. Có ý tà dâm với ai đó, mình phải quán chiếu thân thể là đền thờ tâm linh. Người ta sử dụng thân thể để làm việc thiện, để niệm Phật, để cúng dường Tam Bảo, để tu tập đến ngày giải thoát. Nhờ thân đó mà người ta tu tập và giải thoát được. Nếu xâm phạm đến thân thể của người khác khiến cho người ta không thể nào tu tập được nữa, khiến cho người ta bỏ tu luôn, không có tu tập được nữa, tội đó rất lớn. Quán chiếu được như vậy thì dừng ngay tâm tà dâm đó đi. Tâm tà dâm dừng lại thì hành động tà dâm không còn điều kiện để phát khởi. Mình bảo tồn được đền thờ tâm linh của mình và mình bảo tồn được đền thờ tâm linh của người kia. Con đường hôn nhân rất khổ, thì tại sao lại đi vào đó, cái gì sai sử mình? Đi vào khổ quá chịu không nổi muốn đi ra. Người đứng ngoài thì muốn đi vô, còn người bên trong thì muốn đi ra. Kiểu thế gian là như thế. Mình cứ đi theo vòng lẩn quẩn, kiếp này sang kiếp khác, có bao nhiêu đó thôi. Bây giờ mình làm mới hơn đi, mình vượt qua vòng lẩn quẩn đó có nghĩa là mình lo tu tập. Nếu năng lượng tình dục mạnh quá thì phải học cách chuyển hóa, phải thực tập cho đến khi nào chuyển hóa được năng lượng đó.

Đây là phương pháp thứ ba, này các bạn tu:

Nếu ai đó hành động không dễ thương, lời nói không dễ thương mà trong tâm vẫn còn chút dễ thương, thì nếu là kẻ trí mình lại sinh tâm phiền giận với người đó, thì mình phải nên tìm cách quán chiếu để từ bỏ tâm phiền giận ấy đi.

Người này hành động rất bất cẩn, lời nói rất bất cẩn nhưng trong tâm vẫn còn chút ít gì đó được xem là dễ thương thì hãy làm cho cái chút ít đó nhân rộng ra, mình nhìn vào đó mình thấy là người này dễ thương:

Tuy giận mà lại thương
Thương người còn đau khổ
Cái giận không còn chỗ
Khi vị tha bao dung

Vị tha và bao dung là kẻ thù của cơn giận. Khi tha thứ và bao dung mạnh mẽ thì mình không giận ai cả. Có một bài kệ Cầu thế giới hòa bình:

Kẻ thù của chúng ta
Không phải là con người
Kẻ thù của chúng ta
Là tham, sân và si
Là ngã mạn, nghi, kiến

Tham, sân, si, mạn, nghi, kiến là của mình, đang biểu hiện trong mình. Cho nên khi mình dập tắt sáu tâm độc này thì không còn thấy ai là kẻ thù. Cho dù người ta đào mồ mả ông bà, tổ tiên mình lên người ta mắng mình cũng không giận. Ngày xưa, khi thầy Kính Tâm là thân nữ nhưng giả nam trang để đi tu, bị vu khống có con, nhưng vẫn im lặng. Nếu nói ra sư phụ biết mình là người nữ cải nam trang, không cho tu nữa. Người im lặng vì muốn duy trì sự tu tập của mình. Vị này thấy sự tu tập của mình đẹp quá nên không muốn bỏ tu, cố gắng kham nhẫn, chấp nhận việc đi xin sữa cho con từng ngày. Đi xin sữa cho đứa nhỏ bú thì bị người ta chọi đá, bị người ta mắng nhiếc đủ thứ. Mấy năm trời như vậy chứ không phải một hai ngày. Đến khi đứa nhỏ lớn lên thì nhà sư Kính Tâm kiệt sức qua đời. Lúc đó mọi người mới biết là nữ cải nam trang, người ta mới tôn sùng là Quan Âm Thị Kính. Hạnh kham nhẫn của người phụ nữ này to lớn như thế nào, cho nên khi mình nhìn thấy những hạnh kham nhẫn của những bậc vĩ nhân thì mình thấy trường hợp của mình không nhằm nhò gì hết.

Này các bạn tu, ví như có một người đi tới ngã tư kia, kiệt sức, khát nước, thiếu thốn, nóng bức và phiền muộn, tại ngã tư ấy có một vết chân trâu, trong ấy còn đọng lại một ít nước mưa. Vị này nghĩ, mặc dù nước trong lỗ chân trâu ở ngã tư đường này rất ít nhưng nếu ta dùng tay hoặc lá cây để lấy thì ta có thể quấy cho nó đục ngầu lên và sẽ không uống được, do đó sẽ không trừ bỏ được sự khát nước, thiếu thốn, nóng bức và phiền muộn trong ta. Vậy ta hãy quì xuống, tay và đầu gối áp sát đất, dùng miệng mà uống nước trực tiếp.

Lỗ chân trâu đọng nước dơ và đục, nhưng vẫn còn chút ít nước chúng ta có thể uống để đỡ cơn khát. Người có hành động tệ bạc vẫn còn chút ít nào đó tâm từ. Mình đừng diệt trừ luôn phần người của người đó. Hãy nhìn vào phần người để tha thứ cho họ và quên đi sự phiền giận của mình. Người có hành động không dễ thương thì nếu như trong tâm vẫn còn chút dễ thương thì hãy nhìn vào chút dễ thương đó hay chút dễ thương còn sót lại để tha thứ cho họ và quên đi sự phiền giận của mình.

Nói về một số án tử hình, thông thường chúng ta không có quyền đưa ra án tử hình đối với bất kỳ ai. Một số nước đã bãi bỏ án tử hình từ lâu và không áp dụng án tử hình nữa. Một số nước vẫn còn áp dụng án tử hình và người ta ngồi suy nghĩ là nên xử bắn, cho uống thuốc độc, hay là chích thuốc độc. Nếu bãi bỏ án tử hình thì đâu cần phải ngồi suy nghĩ là nên xử bắn hay nên chích thuốc độc. Thông thường những người tử tù, người mang tội ác chiến tranh hay người mang trọng tội, cho dù bắn trăm ngàn lần vẫn chưa hết tội. Hãy nhớ rằng những nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng như vậy, những nguyên nhân nào khiến cho họ phạm tội?

Mình thấy chồng mình tại sao lại đi quen người phụ nữ khác? Bởi vì đâu có ai chỉ cho chồng mình giữ giới đâu. Nếu như chồng mình quy y tam bảo, thọ năm giới, mỗi tuần một lần hay hai tuần một lần đọc tụng giới và tự soi sáng coi có phạm giới nào không. Nếu đã phạm thì phải thành tâm sám hối và hứa với lòng là từ giờ về sau không phạm giới đó nữa. Không quy y tam bảo, không thọ giới và không ai dạy việc phải giữ giới bảo vệ tiết hạnh nên chồng mình phạm giới và nghĩ rằng chuyện đó là chuyện có thể chấp nhận được.

Cho dù “unfriend” với chồng cũ, giận ông xã cũ nhiều lắm nhưng ông ta cũng còn có chút gì đó dễ thương. Hãy nhớ lại tại sao hồi xưa mình chọn người đó làm chồng? Người đó có những điều dễ thương nào? Khi nhìn nhận lại những sự dễ thương đó thì mình có thể tha thứ cho chồng và mình không giận nữa. Khi nhắc đến tên của người đó hay nhắc đến những hành động phạm giới của người đó thì mình không giận nữa. Tại vì trong cuộc cả hai đều khổ nên mình không có tạo nghiệp mà người đó tạo nghiệp. Cái nghiệp của mình đã trả xong rồi, người đó lại tạo nghiệp nữa thì chắc chắn trong hiện tại và tương lai người đó phải trả nghiệp phạm giới như vậy. Nếu như người đó không lo tu thì người đó sẽ hớt hãi trong đau khổ, đó là điều rất đáng thương. Nghĩ như thế trong trái tim của mình hãy ứa ra những giọt từ bi để mà ôm lấy người chồng của mình. Cái ôm này không phải là cái ôm hình tướng mà là ôm bằng tâm từ, và sự ôm này có thể tha thứ được những gì người chồng đã làm, để tâm hồn của mình thanh thản hơn.

Nếu cứ nuôi cái giận đó hoài, mình gặp người này, người kia mình kể, mình hất cái giận của mình vào mặt người mà mình kể cho nghe vì mình muốn người kia cũng giận chồng mình giống như mình. Cho nên cái đầu tiên là phải thực tập tha thứ, để chấm dứt cơn giận đi. Không thể đem cơn giận qua năm tháng được. Mình phải tiếp tục sống và tiếp tục tu tập. Sự tu tập giúp mình chuyển hóa cơn giận. Nếu như năm năm hay mười năm sau có ai hỏi là: Bạn còn giận chồng của mình không?  Mình nói là cái giận của tôi còn nguyên si, thì khổ thân cho mình quá đi, mình đừng có đem cái giận của mình qua năm tháng như vậy. Phải đưa ra một khoảng thời gian mình có thể thực tập đủ dài để chấm dứt cơn giận chứ đừng kéo dài quá lâu thì sự thiệt hại đầu tiên là mình chứ không phải người kia đâu.

Đây là phương pháp thứ tư, này các bạn:

Nếu có một ai đó hành động không dễ thương, lời nói không dễ thương, mà trong tâm cũng không còn lại chút gì là dễ thương thì nếu là kẻ trí mà mình lại sinh tâm phiền giận kẻ đó thì mình phải tìm cách quán chiếu để trừ bỏ phiền giận đó đi.

Một người từ A đến Z đều không dễ thương hết thì người này quá khổ rồi. Nếu như mình giận một người quá khổ thì mình là người không có trí và mình không đáng để giận. Thông thường ai cũng muốn được khen ngợi là dễ thương. Nếu ai khen mình dễ thương, mình rất thích nhưng nếu một người không có chỗ nào dễ thương hết thì người đó đáng thương. Một đứa con dễ thương và một đứa con không dễ thương hay là một đứa con ngoan và một đứa con hư hỏng, thì người mẹ dành nhiều thời gian cho đứa con hư hỏng vì người mẹ đã an tâm với đứa con ngoan rồi, không cần phải lo lắng nhiều về đứa con ngoan nữa. Đối với đứa con hư hỏng thì cần nhiều thời gian cho nó.

Này các bạn tu, nếu như một kẻ đi xa trên con đường dài, nửa đường bị bệnh khốn đốn, héo hắc. Người này đang đi trên đường thì bị bệnh, không có bạn đồng hành, thôn xóm phía sau đã lìa bỏ lâu rồi mà thôn xóm phía trước còn cách rất xa. Người đó đang lâm vào tình trạng tuyệt vọng, biết mình sẽ chết ở dọc đường. Trong lúc ấy có một người khác đi tới, thấy được tình trạng này liền ra tay cứu giúp, người ấy dìu người kia tới được thôn ấp phía trước, chăm sóc, chữa trị chu toàn về mặt thuốc thang và thực phẩm, nhờ sự giúp đỡ ấy mà người kia thoát nạn. Sỡ dĩ người kia thoát nạn là nhờ ở lòng thương xót và lân mẫn của người này. Cũng như thế, này các bạn tu, khi thấy một ai đó hành động không dễ thương, lời nói không dễ thương, mà trong tâm cũng không còn lại một cái gì đó có thể gọi là dễ thương hết thì ta phải phát khởi tâm niệm này. Một người có hành động không dễ thương, lời nói không dễ thương mà tâm ý cũng không dễ thương là một người rất đau khổ, người này chắc chắn đang đi vào nẻo cực kỳ xấu ác, nếu không gặp được thiện tri thức thì người ấy sẽ không có cơ hội chuyển hóa và đi về các nẻo được hạnh phúc. Nghĩ như thế ta mở được lòng thương xót và cần mẫn diệt trừ được sự phiền giận của ta và giúp được cho kẻ kia, người có trí phải nên thực tập như thế.

Một trong những tâm vô lượng là tâm bi. Tâm bi là tâm thấu hiểu được nỗi khổ của chúng sinh và chia sẻ phương pháp để giúp cho chúng sinh chuyển hóa những nỗi khổ niềm đau, cầu mong chúng sinh chuyển hóa được chúng, thì khi mình thấy được một người từ A đến Z đều không dễ thương thì người này vô cùng đau khổ. Có thể người đó đang trả nghiệp và chắc chắn trong tương lai sẽ trả nghiệp nữa. Nghĩ như vậy thì mình hãy trổ lòng từ bi ra, sử dụng lòng thương xót của mình, cho dù người đó đang rắp tâm hãm hại mình đi chăng nữa thì vẫn trải lòng thương ra. Muốn làm vậy trước hết phải phát triển tình thương và lòng thương xót trong mình. Đừng bao giờ suy nghĩ rằng những người có tâm giận, hoặc tâm hãm hại mình sẽ gặp những chuyện không may. Suy nghĩ như vậy là mình có tà tư duy.

Ví dụ thầy nhớ ngày xưa có người hỏi thầy, người đó đang có mặt ở đây, là có người sử dụng bùa ngãi để ếm mình đó thì nên làm gì để đẩy ngược lại người đó. Thầy nói là không nên suy nghĩ như vậy. Nếu ai sử dụng bùa ngải thư ếm mình thì mình thực tập thiền tuệ, tụng Kinh Từ bi và thực tập rải tâm từ thì từ từ sẽ chuyển hóa được. Cầu chúc cho mấy ông ngải hay các vong bay về núi tu theo Phật, đừng bao giờ kêu họ quay ngược trở về chủ cả. Cầu mong cho người chủ có đủ thuận duyên để tu tập và không có làm chuyện tầm bậy nữa. Mình thực tập như vậy đó.

Những người sử dụng phương tiện đó để hãm hại người khác là rơi vào trường hợp tà mạng, ngược lại chánh mạng, chắc chắn sẽ đi xuống địa ngục. Chỉ có đi xuống địa ngục chứ không có đi đâu được hết. Quán chiếu như vậy mình thấy những người đó sẽ chịu những quả khổ ở địa ngục thì cầu mong cho họ có đủ thuận duyên chấm dứt những việc họ đang làm, gặp được Phật pháp, đủ thuận duyên để tu học cho đến ngày giải thoát. Mình không nên tiếp xúc với những người như vậy. Nói chuyện với ai mình phải cẩn thận, mình không biết được là họ có sử dụng phương tiện như thế hay không? Bây giờ những người đang sử dụng như vậy rất đông, thậm chí người trẻ cũng biết xài. Sử dụng những phương tiện tà mạng khiến cho cư dân ở địa ngục ngày càng lớn, thế giới càng loạn lạc, mà người ta không hiểu tại sao thiên tai cứ trổ ra, dịch bệnh cứ trổ ra, như là dịch cúm gà, cúm gia cầm, năm nào cũng bị thậm chí còn có bệnh lở mồm, long móng ở trâu, bò, heo…

Cách đây vài ngày thầy có xem ti vi, ở bên Hàn Quốc người ta ăn thịt chó rất nhiều và bây giờ xuất hiện virus bệnh chó dại hoặc là bệnh gì đó trên con chó nhưng do một loại virus gây ra và nó có thể lây sang người. Đã qua rồi thời ăn gì bổ nấy mà đi đến thời ăn gì bệnh nấy. Muốn ăn gạo lứt, muối mè thì mình phải ở nhà mới được, còn ở trong quân đội mà ăn gạo lứt, muối mè thì khó theo dõi lắm. Muốn ăn gạo lứt muối mè thì phải tập ăn, chứ đi thẳng vào ăn thì sẽ bị mất sức ngay từ đầu. Nên ăn giảm dần. Ban đầu vẫn ăn đồ ăn bình thường nhưng thay vì ăn thức ăn với cơm trắng thì thay thế bằng cơm gạo lứt, sau đó giảm dần những thức ăn mặn. Giảm từ từ đến khi ngưng hẳn thức ăn mặn. Mình chuyển sang ăn rau củ, giảm dần rau củ, và bắt đầu ăn với muối mè luôn. Đang ăn bình thường mà đi ăn gạo lứt muối mè liền thì sẽ bị mất sức, hoặc không quen. Ăn gạo lứt muối mè trị bệnh xong rồi, muốn ăn lại bình thường cũng tăng từ từ, có nghĩa là sẽ ăn gạo lứt, rau củ, từ từ rồi thêm ít đồ mặn rồi ăn trở lại bình thường chứ không phải là vụt một cái chuyển từ cái này sang cái kia. Khi ăn lại bình thường phải ăn theo quân bình âm dương.
Có một số bài để đi theo như bài 7, bài 6, bài 5, bài 4, bài 3, ... Có thể giảm từ từ hoặc tăng từ từ. Muốn ăn gạo lứt muối mè thì ở nhà sẽ đủ điều kiện ăn hơn, còn trong quân đội, nếu ăn hơi bất tiện. Không theo dõi được hàm lượng cơm và hàm lượng muối mè việc ăn không có tác dụng.
Người có lời nói, hành động cũng như cái tâm không còn dễ thương nữa thì phải biết rằng duyên phước của người này rất thấp hoặc không còn duyên thiện lành nào cả. Hãy thương xót đối với những người như vậy. Mình thường nguyện, con nguyện thương xót hết tất cả muôn loài, ví dụ như những chú chó, chú mèo, chú cá, chú chim. Mình phóng sinh chim cá vì thương các loài vật này. Thế tại sao những người làm mình giận là con người, tại sao mình không thương được. Nếu muốn thương chim cá mà mình phóng sinh thì trước hết phải thương những con người xung quanh mình. Cho dù những con người đó có thể rất hung dữ, có thể rất đau khổ, có thể rất không dễ thương nhưng hãy thực tập thương trước thì mình mới có thể thương được chúng sinh. Nếu miệng nói thương chúng sinh nhưng những người làm mình giận mà mình không thương được thì phải thực tập từ từ để có thể thương được những người đó.
Lúc thực tập rải tâm từ, mình thường nói là con xin rải tâm từ cho con, những người xung quanh con, những người thương con và những người chưa thương con. Mình rải tâm từ cho cả những người chưa thương mình nữa.

Đây là phương pháp thứ năm, này các bạn tu:

Nếu có một ai đó hành động dễ thương, lời nói cũng dễ thương, mà tâm ý cũng dễ thương, thì nếu là kẻ trí mà mình lại sinh tâm phiền giận hoặc ganh ghét với kẻ đó, thì mình phải nên tìm cách quán chiếu để trừ bỏ phiền giận ấy đi.

Cái này là mình dại, người ta rất dễ thương mà mình không thương có phải là mình dại không? Ví dụ như mình có cơ hội tiếp xúc với Phật pháp, Phật là người rất dễ thương, lời nói dễ thương, hành động dễ thương, những lời pháp mà đức Phật dạy rất dễ thương mà mình không chịu tu theo, thì có phải là mình dại không? Cho nên người chuyên đi tìm những người dễ thương để học hỏi Phật pháp và tìm những con đường dễ thương để mà đi. Không có con đường nào dễ thương bằng con đường tu tập hết. Mình có thể coi con đường sự nghiệp rất dễ thương, con đường tình yêu rất dễ thương, con đường hôn nhân rất dễ thương nhưng con đường tu tập là dễ thương nhất, mà mình có xu hướng chọn cái nhất thì mình chọn con đường tu.

Này các bạn tu ví dụ cách ngoài thôn xóm không xa, có một cái hồ thật đẹp, nước hồ đã trong, lại ngọt, đáy hồ sâu mà bằng phẳng, bờ hồ đầy đặn, cỏ xanh mọc sát bên hồ, bốn phía cây cối xanh tươi, cho nhiều bóng mát, có một kẻ kia đi tới bên hồ, khát nước, phiền muộn, nóng bức, mồ hôi nhễ nhại, người đó cởi áo để trên bờ hồ nhảy xuống khoan khoái mặc tình tắm rửa và uống nước. Tất cả những sự khát nước, nóng bức và phiền muộn của mình đều tiêu tan hết.

Một người đi mua nhà thường chọn nơi có môi trường dễ thương, môi trường lành mạnh, không có ma túy, không có tệ nạn xã hội. Mình thù ghét hoàn cảnh và môi trường đó thì thật không hay tí nào và người tội nghiệp nhất là mình chứ không phải là môi trường đó. Đôi khi mình đi mời những người có nhiều khổ đau, mời người đó nghe kinh, mình mời người đó đi thiền hành với mình nhưng người đó từ chối không thực tập thì người đó thật là tội nghiệp. Có những người sống trong hoàn cảnh dễ thương như là môi trường của chùa chiền, xung quanh ai cũng tu hết nhưng không chịu tu thì tội nghiệp lắm.

Tuy nhiên nếu trong hoàn cảnh hoàn toàn không dễ thương từ môi trường cho đến con người mà tự nhiên xuất hiện một người tu thì đó là một điều rất đáng quí. Trên đường đi ai cũng hối hả, tự nhiên xuất hiện một người đi nhẹ nhàng, khoan thai, tâm tính dễ chịu, thì chỗ đó có bình an, giống như một bức tranh mà xung quanh toàn là núi đá, gồ ghề nhưng ở giữa có một bông hoa đang nở thì bức tranh đó được xem là bức tranh bình an.

Ngày xưa có một ông vua thi tuyển họa sĩ cho triều đình thì khi các họa sĩ tới, nhà vua ra đề tài là hãy vẽ một bức tranh bình an. Người vẽ hồ sen rất đẹp, người vẽ mặt hồ tĩnh lặng, người vẽ khu rừng có nhiều cây xanh tươi mát và hoa thơm, cỏ lạ. Nhưng đến bức tranh cuối cùng thì đức vua mới tiếp nhận được sự bình an đó là bức tranh đầy dẫy núi đá, gồ ghề xấu xí, nhưng giữa bức tranh có một bông hoa nở ra. Đức vua nhìn bức tranh đó, thì đức vua thấy bình an. Giữa chiến trận, chỉ cần chút bình an, toàn bộ chiến trận đó có thể là một trận đồ bình an. Giữa một nơi khó khăn, chỉ mới có một người tu tập thôi là môi trường hoàn cảnh đó đã bình an rồi. Đức Phật dạy một vị A La Hán đi tới đâu, chỗ đó trở nên êm dịu, bởi vì năng lượng tu tập của người đó làm cho hoa nở, chim hót, không khí lành mạnh, hiền hòa. Sự tu tập của người đó tỏa ra năng lượng, tác động vào môi trường.

Sau khi nghe bài giảng ngày hôm nay thì hãy thực tập diệt trừ phiền giận, chuyển hóa những phiền giận thành những dòng nước mát, để mình ôm lấy những khổ đau của chính mình và mình thực tập tha thứ. Có những thứ khổ đau rất lớn người ta vẫn có thể buông bỏ được. Ví dụ như mười mấy ngàn người mất trong trận động đất, sóng thần kép bên Nhật Bản, nhiều người chịu không nổi phải tự tử. Đã mười mấy ngàn người mất, mấy ngàn người mất tích, khi chứng kiến cảnh khổ đau như vậy hơn ba ngàn người Nhật Bản đã tự tử, bởi vì họ đau không chịu nổi cho nên họ tự tử, họ khổ quá.

Mình có thể là người đang rất đau khổ. Nhìn lên thì mình không bằng ai, nhưng nhìn xuống có thể mình hơn rất nhiều người. Có những người khổ hơn mình, không còn tay, không còn chân, họ bị phỏng hết toàn thân, có những người chết cháy trong những cuộc hỏa hoạn từ đầu năm tới bây giờ không biết bao nhiêu mà kể. Khi xem ti vi ngày nào cũng có thông tin về cháy hết, không cháy nhà thì cháy xưởng, cháy rừng biết bao sinh mạng, biết bao con người không kịp thoát ra. Họ khổ hơn mình rất nhiều.

Con xin hồi hướng công đức này cho ba mẹ, các học trò, các vị chư thiên ở trên trời, chúng sanh hiện tại và mười phương đồng đều nhau cả thảy.
Nam Mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.